Mời bạn CLICK vào liên kết bên dưới và
Mở Ứng Dụng Shopee để mở khóa toàn bộ chương truyện!
A KIỀU
Ngoại truyện
1.Mạnh Hạc Thư
Lần đầu gặp A Kiều là ở trong tửu lâu.
Khi ấy, một vị khách vô lại giữ chặt nàng không cho đi, một mực nói rằng sau khi ăn món nàng nấu, hắn thấy khó chịu khắp người.
Hắn đòi nàng phải cùng hắn uống một vò rượu, mới chịu thả nàng đi.
Chưởng quầy cũng không bênh vực nàng, ngược lại còn đẩy nàng về phía hắn:
"Uống chút rượu là êm chuyện, khóc lóc làm gì?"
Ngọc Chương cũng đã ăn món nàng nấu, ta rất lo lắng.
Ta dùng ngân châm thử độc cho vị khách vô lại kia, lại bắt mạch hắn.
Hắn không chịu thừa nhận, ta liền thì thầm đe dọa:
"Bây giờ không sao, nhưng nếu cây kim này lệch đi một chút, thì chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra đâu."
Thêm vào đó, Lục Diễn đứng bên không nói một lời, chỉ lặng lẽ lau chuôi đao của mình.
Vị khách vô lại biết điều, hậm hực bỏ đi.
"Không sao rồi, cô nương." Lục Diễn vươn tay về phía A Kiều, lúc ấy đang trốn dưới bàn, nói: "Đừng sợ."
Ngọc Chương vỗ tay tán thưởng, ánh mắt đầy ngưỡng mộ nhìn Lục Diễn:
"Lục Diễn ca ca thật lợi hại, chỉ một chút đã khiến hắn sợ chạy mất!"
Trong lòng ta bỗng thấy cay đắng.
Luôn luôn là như vậy, bất kể ta làm gì, trong mắt Ngọc Chương, Lục Diễn mới là đại anh hùng.
Chúng ta lớn lên bên nhau, nhưng Lục Diễn luôn là người xuất sắc nhất trong đám đông.
Tài võ, học vấn, ta đều không sánh được hắn, nên ánh mắt của Ngọc Chương chưa bao giờ dừng lại nơi ta.
Chỉ có y thuật, là gia truyền, Lục Diễn không hơn được ta.
Nhưng khi ấy, A Kiều không nhìn Lục Diễn, mà quay đầu, đôi mắt đẫm lệ hướng về ta:
"... Cảm ơn huynh."
Đó là lần đầu tiên, khi có Lục Diễn ở đó, ta vẫn được người khác chú ý.
Từ đó, ta và A Kiều quen biết.
Dù ta làm gì, trong mắt Ngọc Chương vẫn chỉ có Lục Diễn.
Nhưng không cần ta làm gì, trong mắt A Kiều, luôn chỉ có ta.
Vì vậy, những khi ta thất vọng, chán chường, ta đều muốn tìm đến A Kiều.
Nhưng A Kiều không biết rằng ta thích Ngọc Chương, nàng nghĩ rằng ta đến là để thăm nàng.
Ở bên A Kiều, nếu có món ngon, mọi nỗi buồn đều không còn quan trọng:
"Tâm trạng không tốt à? Vậy ăn chút lê hoa bạch với cá nhỏ chiên giòn nhé?"
Vị êm dịu của lê hoa bạch trôi qua cổ họng, ta không nỡ tiếp tục dối nàng.
Ta đến tìm nàng, vì Ngọc Chương sắp gả cho Lục Diễn, lòng ta đau khổ:
"A Kiều, mỗi lần ta đều tìm nàng khi ta buồn, nàng có ghét ta không?"
A Kiều cắn giòn tan một miếng cá khô, nghiêng đầu lắc nhẹ, như lẽ đương nhiên:
"Huynh nhớ đến ta khi buồn, chứng tỏ huynh rất dựa dẫm vào ta.
"Ta luôn cô độc, chưa từng có ai đến nói chuyện với ta. Huynh đến, ta rất vui.
"Hơn nữa, có Mạnh thần y ở đây, bọn họ cũng không dám bắt nạt ta nữa."
Nghe thấy sự tin tưởng của A Kiều dành cho mình, trong lòng ta bỗng dưng xao động.
Có lẽ do lê hoa bạch quá mạnh, có lẽ ánh trăng đêm ấy quá đẹp.
Có lẽ chỉ vì muốn đối đầu với Ngọc Chương, hoặc có lẽ ta thực sự động lòng với nàng trong khoảnh khắc ấy.
Ta buột miệng nói:
"Vậy nàng có muốn gả cho ta không?"
Ánh trăng chiếu xuống, khiến khuôn mặt A Kiều đỏ bừng trong thoáng chốc.
Nàng kinh ngạc đến nỗi quên cả cắn đứt miếng cá khô, chỉ vội vàng gật đầu.
Đêm tân hôn, A Kiều nói với ta.
Nàng vốn định tỏ ra điềm đạm, nói muốn suy nghĩ thêm, nhưng lại sợ ta đau lòng nên gật đầu ngay lập tức.
Đêm ấy, dưới ánh nến lung linh, nàng đội mũ phượng, cười dịu dàng nhìn ta:
"Trước đây chưởng quầy tửu lâu nói muốn giữ ta lại, phải suy nghĩ đã.
"Hắn suy nghĩ ba ngày, ta đau khổ ba ngày, đứng ngồi không yên, sợ rằng hắn không muốn ta.
"Suy nghĩ sẽ khiến người khác khó chịu, A Kiều không muốn huynh khó chịu."
A Kiều đã dâng cả trái tim nàng cho ta.
Nhưng ta thì không.
Nàng muốn trồng rau trồng dưa trong sân, còn ta muốn giữ lại chút ký ức về Ngọc Chương.
Ngọc Chương thích nhất là mai trắng đứng trong tuyết, ta muốn trồng vài cây bên ngoài thư phòng.
Nhìn thấy hoa mai là nhớ tới nàng, và sau này khi nàng đến chơi, cũng sẽ biết lòng ta vẫn luôn có nàng.
A Kiều không hay biết, nghe ta nói muốn trồng mai, nàng ngẩn ra, rồi nhanh chóng cười tươi:
"Mai đẹp mà, mai cũng tốt, có thể hái về pha trà."
Nàng hớn hở đi chọn hồng mai.
Người ta hỏi vì sao không mua cây dưa mà lại mua mai, nàng cười, mắt tràn đầy kiêu hãnh:
"Tất nhiên là để cùng tướng công thưởng mai ngắm tuyết chứ!"
Khi ấy nàng đang mang thai Bách nhi, bụng đã lớn, vẫn nâng niu quan sát người ta trồng cây mai, sợ làm cây bị tổn thương.
Nhìn nàng vui vẻ, ta chợt thấy mình thật tàn nhẫn.
Không biết ai nói với nàng rằng Ngọc Chương thích nhất là mai.
Khi ta trở về nhà, nàng đã ngồi bên ngoài thư phòng, đợi rất lâu.
Nàng không khóc cũng không làm ầm lên, chỉ nhìn ta, ánh mắt đầy van nài:
"… Là huynh thích đúng không?"
Ta không giỏi nói dối, sự im lặng của ta như cứa sâu vào trái tim nàng.
Nàng không gọi người nhổ những cây mai đi.
Chỉ là, nàng không bao giờ bước chân vào thư phòng của ta nữa.
Bách nhi là đứa trẻ nghịch ngợm.
Khi sinh nó, do ngôi thai không đúng, A Kiều phải chịu đau suốt một ngày một đêm mới sinh hạ được.
Từ khi có Bách nhi, mối quan hệ giữa chúng ta đã dịu đi rất nhiều qua những năm tháng.
Nhưng rồi Ngọc Chương lại đến.
Lục Diễn khiến nàng ấy chịu nhiều ấm ức.
Ta bận rộn dỗ dành Ngọc Chương, không hề nhìn thấy ánh mắt A Kiều dần dần trở nên u ám.
Cũng không biết rằng, nàng luôn kén chọn đồ ăn, phải làm sao mới nuốt nổi bát mì trường thọ chan nước mắt ấy.
Tối hôm đó, Ngọc Chương nói thèm cá đao, nhưng ta lại nói với A Kiều rằng ta muốn ăn.
Sáng hôm A Kiều ra ngoài, trời u ám, như báo hiệu sắp có mưa.
Khi mưa đổ xuống như trút, ta lưỡng lự không biết có nên mang ô cho nàng hay không.
Thôi vậy, mưa lớn chẳng bao giờ kéo dài, có lẽ rất nhanh sẽ tạnh.
Nàng chỉ cần đợi thêm chút nữa là được.
Nhưng đến khi Bách nhi khóc nháo nói đói bụng, đến khi trời tối đen, A Kiều vẫn chưa trở về.
Ngày thứ hai, rồi ngày thứ ba, Bách nhi gào khóc đòi mẹ, ta cũng sắp phát điên.
Ta ra phố dò hỏi, người từng gặp nàng nói:
"Nương tử A Kiều hôm ấy mang theo một chiếc giỏ nhỏ, vẫn còn cài cây trâm ngọc đậu kia, trông chẳng giống người chuẩn bị đi xa.
"Ngài với nương tử A Kiều cãi nhau à? Một nương tử tốt như thế, Mạnh đại phu phải dỗ dành cho tốt nhé."
Đến ngày thứ bảy, một lái thuyền nói từng gặp nàng, nàng đi về hướng Túc Thành.
Ta không biết tại sao A Kiều lại đến Túc Thành.
Cũng không hiểu vì sao gã lái thuyền ấy lại lừa ta.
Ở tửu lâu Túc Thành, những người lữ hành nhắc đến một nương tử trong thư viện nấu ăn rất ngon:
"Nói ra thì nàng ấy thật đáng thương, bị người ta ức hiếp, cũng không có ai giúp đỡ, chỉ biết ngồi khóc trước cửa.
"May mà Hứa Thường quân tìm được, nếu không nàng ấy đã phải cầm cây trâm rồi."
Nghe nói nàng bị ức hiếp, lòng ta quặn thắt, đau đến không chịu nổi.
Cảm giác đau lòng này hoàn toàn khác với ngày Ngọc Chương khóc tìm đến ta.
Khi đến Quan Hạc Thư Viện, ta thấy một bóng dáng đang phơi quần áo trong sân.
Gió thổi tung những bộ quần áo, như cánh buồm trên mặt nước, lay động chập chờn.
Niềm vui sướng khi mất đi rồi tìm lại khiến ta nghẹn ngào.
Khi nàng nhìn thấy ta, thoáng sửng sốt, theo phản xạ lùi lại một bước.
Rồi nàng cẩn thận nhìn ra sau lưng ta:
"Huynh đến đây, có phải vì cô nương Ngọc Chương cũng ở đây không?"
Ta không thể trách nàng đề phòng, là ta đã làm nàng tổn thương quá nhiều.
"Sau này sẽ không còn nữa, chỉ còn ba người chúng ta..."
Nhưng nàng không cần ta, cũng không cần Bách nhi.
Giờ nghĩ lại, ta nhận ra trong bảy năm qua, ta chưa từng nghĩ đến việc che mưa cho A Kiều.
Vì thế, nàng mới học được cách tự mang ô cho mình.
Suy cho cùng, kiểu tình cảm luôn lo được lo mất như thế này, quá mệt mỏi.
Ngay cả dưới ánh nắng xuân ấm áp, cũng phải dè chừng một cơn mưa rào bất chợt kéo đến.
Tin nàng muốn rời đi, nàng nói với tất cả mọi người, chỉ giấu ta và Bách nhi.
Lại một lần nữa, ta đến muộn, không kịp nắm lấy vạt áo nàng.
"Ta sẽ cùng Bách nhi đến Túc Thành tìm nàng——
"Ta sẽ cố gắng hết sức để bù đắp cho nàng——"
Mưa thu rả rích, bóng người khuất xa.
Nỗi hối hận muộn màng này kéo dài suốt bảy năm, không biết liệu nàng có thể nghe thấy.
2. A Hổ
Ngày hôm đó trên núi, ta vốn định ăn no bụng rồi tìm một nơi yên tĩnh để chết.
Nhưng mẹ lại bất ngờ vỗ nhẹ vào lưng ta.
Ta cảnh giác nhìn, nghĩ rằng lần này lại có ai đó muốn đổ vạ lên đầu ta nữa.
Từ trước đến nay vẫn luôn như vậy, nhà nào có con nghịch ngợm ngã đau, hay trông không cẩn thận để gà vịt đi lạc, sợ bị người lớn mắng thì đều đổ lỗi cho ta.
Triệu Nhị Đản làm mất con vịt, cũng nói là do ta.
Hắn trốn trong lòng cha mẹ, không dám nhìn ta, giả vờ oan ức khóc lóc.
Phi!
Tại sao phải nói dối? Cha mẹ ngươi cùng lắm cũng chỉ mắng ngươi vài câu, đâu có bỏ rơi ngươi.
Ta ngẩng đầu, cứng giọng nói:
"A Hổ không làm thì không nhận."
Cha mẹ Nhị Đản liền giơ gậy dọa ta, hoặc thả chó nhà ra đuổi theo ta:
"Thằng hoang không cha không mẹ!"
"Con chó ghẻ không ai quản!"
Bị chó rượt, ta lăn lộn rồi ngã xuống bùn hôi.
Tối đến, ta lê lết đến góc sân nhà Nhị Đản, định đẩy đổ giàn dưa nhà hắn.
Nhưng lại nghe tiếng hắn sụt sịt nhận sai.
Cha hắn đánh hắn một trận, Nhị Đản mới thừa nhận rằng vừa rồi hắn đã nói dối, không phải ta cướp mất con vịt của hắn.
Chỉ vì sợ người khác nói Nhị Đản là kẻ hay nói dối, cha mẹ hắn không dám vạch trần sự thật trước mặt mọi người.
Thà để sai thành đúng, chỉ cần mắng ta một trận là xong.
Ta nghe rất lâu.
Nghe thấy cha Nhị Đản dạy hắn không được nói dối.
Nghe thấy mẹ Nhị Đản xót con, muốn lấy trứng gà lăn cho đôi mắt sưng vì khóc.
Ta chờ đến khi nhà họ tắt đèn.
Nhưng không nghe thấy ai nói rằng phải đi xin lỗi A Hổ cả.
Ta ngồi ôm đầu gối bên chân tường rất lâu, chợt hiểu ra một điều.
Thật hay giả không quan trọng, quan trọng là người lớn muốn tin vào điều nào.
Nhưng A Hổ không có cha mẹ, nên không ai tin A Hổ.
Ta chờ một ngày, không đợi được một câu xin lỗi.
Nhị Đản hớn hở cười nhạo ta, nói hôm qua bị chó đuổi trông thật nhục nhã.
Đến ngày thứ ba, ta mở chuồng gà nhà hắn, đạp đổ giàn dưa nhà hắn.
Chồn cắn chết gà nhà hắn, giàn dưa non vừa đâm chồi bị ta giẫm nát.
Sáng sớm, cả nhà hắn ra sân khóc lóc chửi rủa.
Ta thấy thật sảng khoái, liền chạy một mạch lên núi.
A Hổ chạy rất nhanh, gió trên núi thổi phồng quần áo ta.
Cơn gió nhẹ nhàng như vòng tay mẹ ngày xưa, ôm ta trọn vẹn vào lòng.
Đúng vậy!
A Hổ chạy không phải vì sợ bị đánh, mà vì A Hổ muốn cảm nhận cơn gió.
Cũng giống như khi A Hổ làm điều xấu, không phải vì muốn nhận một lời xin lỗi.
Vì A Hổ chính là con chó ghẻ. Chó ghẻ cắn người, đâu cần lý do.
Đúng vậy!
A Hổ sau này sẽ làm một con chó ghẻ! Một con chó vừa xấu vừa hôi, khiến ai cũng phải sợ hãi!
Vì thế, cha Nhị Đản đánh ta, Hứa Thường tìm người đánh ta.
Ta chỉ cười hì hì, lăn lộn trong bùn.
"Hì hì, không đau, chẳng đau chút nào."
Họ hoàn toàn bất lực trước A Hổ.
Trong lòng ta không nhịn được mà tự khen mình:
"A Hổ thông minh thật!"
Ngày ta quyết định chết là sinh thần mười tuổi của ta.
Nhưng ta nghĩ lại, dù sao cũng phải ăn no đã rồi hãy chết.
Ta trộm một con gà, chạy lên núi nướng.
A Kiều nương tử đứng phía sau ta, bước chân nhẹ nhàng như làn gió trên núi.
Ta không hề phát hiện ra, nàng khẽ vỗ vai ta:
"Con gà lông hoa này nướng thế này ăn không ngon đâu."
Cứ như thể, việc nướng không ngon còn quan trọng hơn cả việc ăn trộm.
Ta nghi ngờ nhìn nàng đang đứng trước bếp lửa.
Nàng nhanh nhẹn xắn tay áo, nhóm lửa, đặt nồi lên.
Rõ ràng chỉ thêm gừng, muối và chút rượu vàng, nhưng lại thơm hơn bất kỳ nồi súp nào trong làng.
Lớp mỡ gà vàng óng ánh, nhìn đến mức mắt ta suýt rơi vào nồi.
Hai cái đùi gà đều nằm trong bát của ta.
Nếu có độc, ta cũng nhận.
Ba bát súp gà trôi xuống bụng, ta vẫn không hiểu nàng muốn làm gì.
"Về sau nếu đói bụng, đừng đi ăn trộm nữa, cứ đến đây ăn cơm."
Mắt ta bỗng thấy nóng, nhưng lại không biết phải nói gì.
May mà cái tên đáng ghét Hứa Thường đến, ta đặt bát xuống rồi chạy mất.
Ta chạy một mạch lên núi.
Hôm nay là rằm, gió trên núi rất lớn, thổi tan mây dày, để lộ một vầng trăng thật to.
Hì hì, trăng đẹp quá, ánh trăng soi sáng lòng A Hổ, sáng rõ như ban ngày.
Nửa đêm trời đổ mưa lớn, còn có gió to.
Ta nhớ lúc A Kiều nương tử nấu canh, giàn trong sân nàng dường như vừa được dựng mới.
Trời chưa sáng, ta vội chạy đến chỗ giàn mới dựng, nhưng bị cái tên đáng ghét Hứa Thường bắt quả tang.
Hứa Thường tưởng ta là kẻ đẩy đổ giàn, muốn dạy cho ta một bài học.
Phi! A Hổ ta đâu sợ, cùng lắm thì làm con chó ghẻ cũng được!
Nhưng khi A Kiều nương tử đến, bùn đất sau cơn mưa dường như mọc gai, ta chẳng thể nào nằm xuống được nữa.
Hỏng rồi! Có nàng ở đây, ta không thể làm con chó ghẻ A Hổ được nữa!
Ta đẩy mạnh Hứa Thường một cái khiến hắn ngã nhào.
Ta sợ hãi, sợ rằng nàng cũng không khác gì mọi người.
Gặp chuyện xấu chẳng hỏi rõ ngọn ngành, chỉ biết mắng chửi trước.
Nhưng nàng chỉ nhẹ nhàng nói:
"Hôm qua gió lớn, mưa to, có lẽ là ta dựng giàn không chắc.
"Vậy từ nay về sau, gặp chuyện gì, ta sẽ hỏi con trước, được không?
"Giả sử bây giờ A Hổ vẫn chưa chạy, để ta hỏi lại một lần.
"Giàn là do A Hổ đẩy đổ à?"
Ta lắc đầu thật mạnh:
"Không phải A Hổ đẩy! Đêm qua gió mưa lớn, con lo giàn của nương tử bị đổ nên mới đến xem, nhưng khi đến nơi thì giàn đã ngã rồi."
A Kiều nương tử chợt mỉm cười:
"Ta biết ngay không phải A Hổ làm."
Những năm qua, dù bị đánh hay bị mắng, ta cũng không khóc.
Ta cứ ngỡ A Hổ đã quên cách khóc rồi.
Hóa ra, khi được yêu thương, nước mắt vẫn có thể rơi.
Thấy ta ôm bát khóc, mẹ chỉ cười dịu dàng:
"Ăn gà lông hoa mà trộn với nước mắt sẽ không ngon đâu, sẽ mặn đấy."
Mẹ đến rồi, A Hổ có nhà rồi.
Có quần áo sạch để mặc, có cơm ngon để ăn, còn có chiếc giường mềm thơm để ngủ.
Mẹ hỏi ta rất nhiều chuyện, rồi dẫn ta đi xin lỗi Hứa Thường.
Mẹ nói rằng, dù là vô ý, nhưng Hứa Thường ca ca thực sự đã bị thương.
Thấy ta cúi đầu xin lỗi, Hứa Thường bĩu môi, quay mặt đi nói:
"Ta là quân tử, quân tử độ lượng, không chấp nhặt với ngươi."
Đứng trước cửa nhà Nhị Đản, ta hơi do dự, níu lấy vạt áo mẹ:
"... Cũng phải xin lỗi Nhị Đản sao?"
Ta không muốn xin lỗi hắn.
Nhưng bất ngờ thay, chính Nhị Đản lại xin lỗi ta:
"Xin lỗi, lần trước không nên nói dối đổ tội cho ngươi. Nhưng ngươi cũng làm hỏng đồ nhà ta, coi như hòa nhé?"
Ta không biết.
Ta từng hận Nhị Đản rất lâu, thậm chí nghĩ cách trả thù hắn.
Nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng, nếu một ngày hắn xin lỗi, ta có nên tha thứ hay không.
Mẹ xoa đầu ta, dịu dàng nói:
"Không tha thứ cũng không sao. Khi đó A Hổ chắc đau lắm đúng không?"
"... Con, con không hẹp hòi vậy đâu! Con chỉ cần suy nghĩ thêm chút thôi!"
Nhị Đản không biết xấu hổ, đi theo ta, gọi ta là A Hổ ca.
Nhưng ta biết rõ, hắn chẳng qua là thèm cơm của mẹ thôi!
Nhìn hắn cười nhăn nhở, ta cũng khó mà giận mãi được.
"Hừ, hóa ra ghét một người lâu cũng thật mệt mỏi."
"Mẹ, con không biết có nên tha thứ cho Nhị Đản không."
Mẹ suy nghĩ một lúc rồi đáp:
"Trước khi tha thứ, A Hổ hãy tự hỏi mình, sau này nghĩ lại chuyện này có còn thấy buồn nữa không."
Ta suy nghĩ thật kỹ.
Có lẽ không còn buồn nữa. Giờ đây ta chỉ nhớ việc Nhị Đản không biết xấu hổ gọi ta là Hổ ca.
Hổ ca không chấp nhặt với đệ đệ Nhị Đản.
Ta hào phóng đưa tay ra:
"Nhị Đản, ta tha thứ cho ngươi."
Ta vẫn luôn nghĩ mẹ trời sinh đã hiểu lý lẽ như vậy.
Về sau mới biết, vì mẹ từng chịu rất nhiều uất ức, nên mới hiểu được nỗi khó khăn của người khác.
Từ nay về sau, mẹ đã có A Hổ chống lưng.
A Hổ sẽ không để mẹ phải chịu thêm bất kỳ ấm ức nào nữa.
Mẹ dẫn ta đến Túc Thành, tìm được một chỗ ở.
Chưởng quầy của tửu lâu ở đây rất tốt, không ngớt lời khen tay nghề của mẹ.
Biết mẹ mới đến Túc Thành, lại phải chăm sóc ta, ông còn sẵn sàng trả thêm công.
Chúng ta thuê một căn nhà nhỏ ở ngõ Ngọt Thủy.
Ngôi nhà tuy không lớn nhưng có một sân nhỏ.
Trong sân có hai mảnh đất trống và một cây quế già, trên lá cây ẩn hiện những bông quế nhỏ như sao trời.
Mẹ rất thích nơi này, còn nói sẽ cải tạo mảnh đất để trồng rau, thu hoạch hoa quế để làm nước đường cho ta ăn.
Hì hì, mẹ thích, A Hổ cũng thích.
Các thím ở ngõ Ngọt Thủy cũng yêu quý mẹ, nói rằng A Kiều nương tử là người chân thật, không gian trá, ai gặp khó khăn nàng đều sẵn lòng giúp đỡ.
Mẹ dẫn ta đi đây đi đó, nhưng chưa từng sinh chuyện thị phi.
Vì mọi người ở ngõ Ngọt Thủy đều biết, ai dám nói xấu A Kiều nương tử, các thím sẽ đứng ở đầu ngõ, chống nạnh mắng một ngày trời không hết lời.
Mẹ thường nói, Túc Thành cũng như Thanh Châu, có rất nhiều người tốt.
Mẹ nói sai rồi.
Chính vì mẹ là người tốt, nên mới xứng đáng nhận được sự tốt đẹp của mọi người.
Mẹ từng viết một lá thư, nhờ ca ca Xuân Sinh mang đến Thanh Châu.
Bức thư dặn "con sói con trắng mắt lớn" đưa theo "sói con trắng mắt nhỏ" ở lại Thanh Châu chăm chỉ học hành, bởi thư viện ở Thanh Châu là tốt nhất.
Kèm theo bức thư là một chiếc áo đông nhỏ:
"Là may từ vải thừa của A Hổ."
Hừm, mẹ thật coi thường bụng dạ của A Hổ, nhưng A Hổ cũng là người rộng lượng lắm đấy nhé!
Hằng năm đến sinh nhật của mẹ, Thanh Châu đều gửi quà đến.
Lúc thì là trâm bạc trang sức, lúc thì là phấn son nước hoa.
Phi! Ta cũng gửi hai phần quà mà!
Vì A Hổ vừa nấu cơm vừa tặng trang sức!
Huống chi, quà của họ sao đẹp bằng quà của ta chứ.
Thời gian cứ thế trôi nhanh.
Năm ta chuẩn bị vào kinh thi võ khoa, Thanh Châu lại gặp phải giặc cướp đường thủy.
Đó là nơi ta lớn lên, cũng là nơi ta gặp được mẹ.
Ta quay về Thanh Châu, đầu quân vào thủy quân.
Thấy ta trở về, Nhị Đản dậm chân:
"Thi võ khoa bị lỡ mất, không biết khi nào mới làm rạng danh mẹ ngươi nữa! Nghe nói sói con trắng mắt nhỏ đã đỗ cử nhân, sắp làm quan rồi đấy!"
Ta cắn một miếng lương khô mẹ làm cho, vẫy tay:
"Mẹ ta không để tâm những chuyện đó đâu."
Cuộc chiến ở Thanh Châu kéo dài một năm rưỡi, cuối cùng cũng dẹp được giặc cướp.
Ta vội vã muốn trở về nhà, nhưng bị cấp trên kéo đi dự tiệc mừng công.
Không ngờ trong tiệc mừng công lại toàn người quen.
Hứa Thường ca đã đỗ cử nhân, nhưng vì tính tình ngay thẳng, không thích hợp với quan trường, nên đã từ chức, đưa vợ con về thư viện dạy học, sống những ngày ung dung tự tại.
Hứa Thường ca nhắc lại chuyện cũ, cũng kể về những chuyện sau khi chúng ta rời đi.
Ta bị chuốc rượu, trong cơn say nghe loáng thoáng, sói con trắng mắt nhỏ đã đỗ đạt công danh, hình như còn rất giỏi.
Nghe đâu hắn sắp đến Túc Thành làm quan, quản lý hơn bốn mươi người trong nha môn.
Nhị Đản mặt dày tiến đến xin ta nửa bát rượu:
"Dù hắn làm quan ở Túc Thành, nhưng vẫn không bằng đại ca. Đại ca ở thủy quân, quản lý tận hai trăm người cơ mà."
Túc Thành?!
Ta giật mình tỉnh rượu, vội xách hành lý chạy đến bến thuyền.
Mưa thu lất phất như tơ, giống hệt ngày mười năm trước mẹ dẫn ta đi.
Không ai đi thuyền, con thuyền cứ lững thững đậu tại bến.
Mưa vừa ngớt, người lái thuyền nằm ngửa, chỉ đội mũ rơm che đầu, tay gối sau gáy lim dim ngủ.
"Nhanh lên, nhanh lên! Về Túc Thành!"
Ta cuống quýt, nhưng người lái thuyền lại không vội.
Hắn từ từ ngồi dậy, tháo mũ rơm ra, để lộ một khuôn mặt quen thuộc:
"Ô, đại anh hùng của Thanh Châu chúng ta, sao lại gấp gáp thế này?"
Xuân Sinh ca vỗ chiếc mũ rơm, gạt nước mưa, ánh mắt thấu rõ tâm tư của ta.
Nhưng hắn không vạch trần, chỉ cười:
"Xem kìa, đại anh hùng vội vã như gặp phải chuyện quan trọng nhất trên đời."
Ta định giải thích, nhưng nghĩ đi nghĩ lại rồi cũng bật cười. Xuân Sinh ca nói không sai.
Chuyện quan trọng nhất trên đời, chẳng phải là về nhà ăn cơm sao!
(Hết)