HỈ ĐOÀN VIÊN
Chương 1
1
Kẻ hậu bối sau khi trải qua nỗi đau bi thương cùng cực, rồi lại bất ngờ nếm trải niềm vui ngắn ngủi, cuối cùng vẫn rơi vào cảnh khốn cùng, trong bi thương lại xen lẫn chút sợ hãi.
Hắn lảo đảo từng bước, vừa bò vừa lăn lóc ra ngoài, miệng không ngừng lắp bắp:
“Ngươi... ngươi... ngươi rốt cuộc là quỷ tốt hay quỷ xấu? Làm ơn tha mạng cho ta! Ta chỉ là một kẻ nhà tan cửa nát, gia quyến đều đã mất, sống chẳng còn ý nghĩa, mới cả gan đến mộ tổ tìm chút vận may. Quan Âm Bồ Tát từ bi, xin cứu lấy con, cứu con với!”
Từ sâu trong bóng tối, thanh âm của ta vang lên, trầm ổn mà lạnh lùng:
“Ngươi lại đây, ta bảo cho ngươi biết chỗ giấu bạc.”
Hắn lập tức ngừng lại, không dám lăn thêm nữa.
“Trước kia có không ít đạo tặc lọt vào đây, đều bị ta dọa chạy mất, tài bảo chưa hề suy suyển. Nếu ngươi đã là hậu nhân của Tạ Ỷ, giao cho ngươi cũng xem như hợp lẽ.”
Kẻ hậu bối đứng lặng một hồi, dường như đấu tranh nội tâm. Cuối cùng, hắn chỉnh lại y phục, phủi sạch bùn đất trên người, quay đầu cung kính chắp tay vái ta:
“Được cô nương giữ gìn mộ phần Tạ gia suốt bao năm, hậu bối vô cùng cảm kích. Dù cô nương là quỷ, tại hạ cũng xin tuân theo. Mong cô nương chỉ lối.”
Sắc mặt hắn nghiêm trang, khí thế kiên quyết tựa như đã sẵn sàng đối mặt với sinh tử.
Ta đưa hắn vào sâu trong mộ thất.
“Ngươi tên gì?”
“Tạ Bán Xuân.”
“…Tên không tệ. Nhưng để mang được bạc ra ngoài, cần đáp ứng điều kiện của ta. Nơi đây chính là chỗ ta muốn nói.”
Trước mặt là một gian phòng chất đầy vàng bạc, châu báu sáng lấp lánh khiến đôi mắt của Tạ Bán Xuân như dán chặt. Hắn ngây ngẩn đứng đó, hoàn toàn quên đi sự hiện diện của ta.
Giống như một đứa trẻ lạc mẹ, hắn bật khóc, vừa cười vừa lao vào đống vàng bạc. Nhưng khi tay vừa định chạm vào, hắn bỗng khựng lại, quay người nhìn về phía chiếc quan tài dài một trượng đặt chính giữa gian phòng.
Hắn quỳ xuống, thành kính dập đầu ba cái thật mạnh:
“Hậu nhân bất tài, gia nghiệp suy tàn, thân nhân ly tán. Nay xin lấy năm mươi lượng bạc để mưu sinh. Ngày sau nếu công thành danh toại, nhất định sẽ hoàn trả gấp mười, không, gấp trăm lần!”
Ta nhàn nhạt nói:
“Có chí hướng như vậy là tốt, nhưng ngươi hãy nghe ta nói hết đã.”
Ta chỉ tay về phía quan tài:
“Thứ nhất, chiếc quan tài kia chỉ là trống rỗng. Thứ hai, ta đã nói rõ, muốn lấy bạc thì phải mang ta ra ngoài. Ngươi đã nhận bạc, khế ước đã thành, giờ mau dẫn ta đi.”
Sắc mặt Tạ Bán Xuân lập tức tái nhợt, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng:
“Quan, quan tài trống sao? Phụ thân ta từng nói, tổ tiên năm xưa làm quan tới chức Tể tướng, lúc hạ táng long trọng vô cùng. Sao giờ lại thành như thế này! Tổ tiên bị kẻ trộm đoạt thi hài, đạo trời khó dung! Ra khỏi đây, ta nhất định báo quan!”
Hắn nghiêm nghị chắp tay vái ta lần nữa:
“Cô nương yên tâm, quân tử nhất ngôn, ta nhất định sẽ mang cô ra ngoài.”
Ta đưa tay chống trán, bất giác thở dài:
“Trăm năm đã qua, vậy mà ta vẫn không thể trò chuyện hợp ý với kẻ họ Tạ.”
2
Năm ta vừa tròn mười tám, một sự cố kỳ quặc đã cướp đi mạng sống của ta – c/h/ế/t vì đụng phải quan tài. Lúc tỉnh lại, trước mắt chỉ còn cảnh tượng u ám, tiêu điều của một ngôi mộ tàn tạ.
Không rõ đã bao nhiêu năm trôi qua kể từ đó, vài chục năm hay vài trăm năm, ta cũng không đếm được. Trong quãng thời gian dài đằng đẵng ấy, từng nhóm đạo tặc đã vào đây, nhưng chẳng kẻ nào có thể giúp ta thoát ra khỏi nơi này.
Ban đầu, ta không hề biết đây là mộ phần của ai. Cho đến một ngày, một phương sĩ bị truy nã, không nơi dung thân, tình cờ chạy trốn vào đây.
Ông nhìn quanh mộ thất rồi nói:
“Đây chính là mộ của Tể tướng nước Tề năm xưa, Tạ Ỷ. Tuy ông ấy mất sớm, nhưng một đời luôn làm điều thiện cho bách tính, nhờ vậy mà nơi này tràn đầy linh khí. Có lẽ chính nguồn linh khí ấy đã giúp dưỡng lại hồn phách vốn đã tan biến của cô. Chỉ là, thật kỳ lạ... ông ta lại không để thi hài mình trong mộ phần phong thủy bảo địa thế này. Có lẽ vì lý do ấy mà hồn phách ông sớm đã chuyển sinh, bắt đầu một kiếp người mới tốt đẹp hơn rồi.”
Phương sĩ ngừng một lát, ánh mắt sắc bén nhìn ta:
“Hồn phách của cô bị cố ý đặt vào trong ngọn Trường Minh Đăng. E rằng chỉ có hậu nhân của Tạ Ỷ phá vỡ cây đèn này mới có thể giúp cô mượn sức lực mà thoát ra.”
Ta và phương sĩ ấy hàn huyên suốt một thời gian dài. Ông kể ta nghe những chuyện kỳ lạ trong trăm năm qua ở nhân gian, từ biến động của đất nước đến những phong tục đổi thay. Đến khi tuổi thọ của ông cạn kiệt, ông chỉ để lại hai chữ ngắn gọn: “Nhân quả.”
Hiện tại, nhìn kẻ hậu bối trước mặt – Tạ Bán Xuân – ta không khỏi cảm thấy nực cười. Gương mặt hắn ngây ngô bảy phần, ngớ ngẩn ba phần, ánh mắt lấp lóe sợ hãi chẳng che giấu được.
Hắn nhận thấy ánh nhìn lạnh lẽo của ta, bèn cố gắng nặn ra một nụ cười méo mó, trông vừa buồn cười vừa đáng thương. Trong lòng ta nghĩ, thôi thì, khuôn mặt nhăn nhó khổ sở kia, có lẽ không xứng với hai chữ "nhân quả" cao quý.
“Hẳn... hẳn ta phải làm sao mới đưa được cô nương ra ngoài?”
Ta bình thản đáp:
“Ngồi xuống.”
Bóng dáng mờ ảo của ta bám lên cổ hắn, hồn phách tựa nhẹ vào lưng.
“Đi thôi.”
Thân thể Tạ Bán Xuân lập tức cứng đờ.
“Sao thế?”
“Không... không có gì, chỉ là... hơi lạnh.”
Ta bật cười, giọng điệu trêu chọc:
“Dù sao ta cũng là nữ quỷ, có chút âm khí cũng là chuyện thường. Ngươi cố chịu một chút, ra ngoài sẽ ổn thôi.”
“Vâng... vâng.”
Hắn cõng ta trên lưng, từng bước chậm chạp tiến về phía cửa mộ.
“Cô nương tên gì? Ra ngoài rồi định làm gì?”
Câu hỏi này khiến ta nhớ đến phương sĩ năm xưa. Khi đó, ta cũng từng hỏi ông ta câu tương tự, và ông chỉ khẽ cười, đáp lại bằng một câu hỏi khác:
“Cô muốn làm người, hay vẫn muốn tiếp tục làm quỷ?”
Ông nói thêm:
“Hồn phách của cô đã không còn trong Sinh Tử Bộ. Nếu muốn làm quỷ, có thể tùy ý bay qua bay lại, chẳng ai quản. Nhưng nếu muốn làm người, cần phải tìm lại đủ thất khiếu (bảy lỗ trên mặt: mắt, mũi, tai, miệng).”
Khi ấy, ta cảm thấy làm người chẳng có gì thú vị. Giờ đây, cảm giác ấy vẫn chẳng thay đổi.
“Cứ gọi ta là ‘Doanh Quả’. Ngươi nói trong nhà ngươi có treo bức họa của ta? Ta muốn xem. Nếu không dẫn ta đi, mỗi đêm ta sẽ đến đầu giường dọa ngươi.”
Ta cứ nghĩ Tạ Bán Xuân sẽ run rẩy hoảng sợ, nhưng không ngờ hắn lại bật cười.
“Nếu muốn xem bức họa, Doanh cô nương chỉ cần lặng lẽ theo ta là được. Nhưng để ta dẫn cô nương đi thì vẫn tốt hơn. Điều đó chứng minh rằng Doanh cô nương là người biết lễ nghĩa, và nếu vậy thì ta chẳng còn gì để sợ nữa.”
Ta thoáng ngẩn người, bất giác cảm thán:
“Sự lanh lợi của dòng họ Tạ cũng có thể di truyền hay sao?”
3
Dương khí nhân gian so với những gì ta dự liệu còn dày đặc và nặng nề hơn rất nhiều. Ánh mặt trời rực rỡ nơi ngoại ô chiếu xuống, khiến hồn phách ta suýt tan thành hai mảnh.
Tạ Bán Xuân thấy ta khổ sở liền vội vàng chạy đến quán trà bên đường, tìm được một chiếc ô vàng, cẩn thận che trên đầu ta. Nhìn ta chật vật tụ lại thành hình dưới bóng ô, hắn mới thở phào nhẹ nhõm.
Hắn ngồi xuống ven đường, vừa vuốt vuốt ống tay áo, vừa nghiêm túc tự trách mình:
“Kẻ sĩ không lấy của người khác, vậy mà ta lại phạm phải nguyên tắc.”
Ta ngán ngẩm liếc nhìn hắn, nhếch môi nói:
“Ngươi đã đào mộ, lại còn bàn chuyện đạo Nho, đạo Mặc? Còn nữa, cái ô này xấu quá, ta không thích. Đi tìm cho ta một chiếc ô cán treo chuông, đi đường nghe leng keng vui tai hơn.”
Vậy là, những người qua đường chỉ thấy một thư sinh ăn mặc rách rưới, ngồi giữa bụi cỏ, đầu ngoảnh sang một bên, lẩm nhẩm như đang độc thoại.
“Ta nghèo túng thế này, thật uổng công làm người đọc sách.”
“Một chiếc ô cán chuông sao? Thứ ấy đã thịnh hành từ đời trước, vừa đắt đỏ lại khó tìm. Nhưng xem ra Doanh cô nương sống đã lâu đến thế.”
Tạ Bán Xuân lắc lắc túi bạc trong tay, mắt sáng lên như chợt nhớ ra điều gì. Hắn ngẩng đầu nói với vẻ hiểu biết:
“Ta nhớ trong sách cổ có ghi, tiểu thư út của Tể tướng Tạ Ỷ rất thích nghe tiếng chuông ngân khi trời đổ mưa. Vì yêu chiều muội muội, huynh trưởng nàng tự tay làm một chiếc ô cán chuông. Chuyện ấy truyền ra, cả kinh thành bắt chước theo.”
Nhìn hắn mân mê túi bạc, ánh mắt suy tính, trong lòng ta dấy lên dự cảm không lành.
Quả nhiên, ngay sau đó, hắn cất bạc đi, khuôn mặt bừng bừng chí lớn:
“Doanh cô nương là bậc tiền bối, ta xem cô nương như tỷ tỷ, như bằng hữu. Huynh trưởng nàng làm được, ta cũng làm được!”
Ta ngồi dưới chiếc ô vàng, buồn bã nhìn trời. Còn Tạ Bán Xuân thì loay hoay giữa đống tre nứa, cặm cụi làm chiếc ô cán chuông như kẻ tràn đầy lý tưởng.
Gió từ xa vượt núi băng đèo, mang theo tiếng chuông treo trên cành cây vang lên trong trẻo.
Thuở xưa, ta thường ngồi dưới hành lang, nghe tiếng mưa rơi trên mái ngói, lơ đãng gõ chiếc chuông nhỏ treo nơi góc hiên. Vừa gõ, ta vừa khe khẽ hát bài mẹ từng dạy:
“Đinh đinh đang đang, châu ngọc lung linh, Tạ gia chi lan, ngọc thụ đồng hương.”
Bất chợt, một tiếng cười khúc khích vang lên khiến ta giật mình. Ai dám cười ta?
Ta đứng dậy, xỏ giày, đi dọc hành lang tìm kiếm. Nhưng dù tìm mãi, ta vẫn không thể xác định được tiếng cười ấy phát ra từ đâu.
Dừng bước trước một khung cửa hoa, cuối cùng ta cũng hiểu. Bước tới gần, ta bất ngờ thò đầu ra nhìn, quả nhiên thấy một thanh niên vận áo xám tro đứng bên kia vách đá.
Hắn vừa nhìn ta vừa cười. Trên mặt vẫn còn vương hơi nước bụi đường, trong mắt đọng lại ánh lệ nhàn nhạt như vừa khóc. Nhưng nụ cười của hắn lại rạng rỡ đến lạ kỳ.
Ngay lúc ấy, cha ta xuất hiện từ phía sau hắn, gương mặt ông không hề dễ chịu.
Cha kéo ta qua, ánh mắt nhìn ta rồi nhìn thanh niên kia, như thể đang phân vân điều gì. Một lát sau, ông mới cất tiếng:
“Đây… đây là đứa con của Tam Nương khi còn ở ngoài. Không lâu trước Tam Nương đã qua đời, nó không ai chăm sóc. Vì tình cốt nhục, cha mới đưa nó về. Nó lớn hơn con, từ nay phải gọi một tiếng 'huynh trưởng'.”
Nghe xong, mọi cảm xúc mơ hồ vừa nảy sinh trong lòng ta lập tức tan biến. Ta lạnh lùng nhìn hắn, vứt cuốn sách xuống, quay lưng bỏ đi không ngoảnh lại.
Trước khi cưới mẹ ta, cha từng đính ước với một người phụ nữ ở quê. Sau này, bà ấy bệnh nặng qua đời. Ngoại tổ yêu mến tài năng của cha, nên đã gả mẹ ta cho ông.
Năm ta mười hai tuổi, mẹ vốn đã yếu, một ngày tình cờ bắt gặp cha ôm người phụ nữ khác, thiết tha gọi “Tam Nương”.
Mẹ lúc đó mới biết rằng người phụ nữ cha từng đính ước vẫn còn sống, và cha đã lén lút nuôi bà ấy bên ngoài. Trước khi cưới mẹ, Tam Nương đã mang thai.
Vì phẫn uất, mẹ bệnh càng nặng. Chẳng bao lâu sau, bà qua đời, nhưng trước khi mất, bà bắt cha thề không được cho Tam Nương và đứa con ấy bước vào cửa.
Năm ta mười bốn tuổi, cha góa bụa, liền đón con trai của Tam Nương vào nhà, buộc ta phải gọi hắn là “huynh trưởng”.
Ta không để tâm, ngày ngày lớn tiếng gọi hắn:
“Tạ Ỷ!”
4
Ta nằm ngủ dưới chiếc ô vàng, giấc mộng đưa ta về những ký ức của tiền trần đã qua. Khi tỉnh dậy, vừa hé mắt nhìn ra ngoài, cảnh tượng trước mắt khiến ta suýt nữa rớt cả cằm.
Trước mặt ta, Tạ Bán Xuân đã bày ra một gian hàng nho nhỏ ven đường, trên đó đầy những chiếc ô cán chuông rực rỡ.
Giật mình đến mức phải đưa tay chỉnh lại cằm, ta bay tới chỗ chiếc ô mà hắn làm riêng cho mình, hỏi đầy nghi hoặc:
“Chuyện gì đang xảy ra thế này?”
Tạ Bán Xuân ngẩng lên, vẻ mặt thản nhiên:
“Cô ngủ cũng khá lâu. Ta sợ làm ồn sẽ ảnh hưởng đến hồn phách của cô, nên tìm việc làm cho khuây khỏa. Nhớ lúc mới gặp, cô mặc áo váy màu xanh, ta tiện tay làm thêm một chiếc ô màu xanh. Lại nghĩ đến dọc đường cô từng khen hoa vàng đẹp, ta cũng làm thêm một chiếc màu vàng. Làm xong, nghĩ thử nhiều kiểu dáng một lần, ai ngờ khi đang làm thì có người ghé mua.”
Vừa nói, hắn vừa đếm bạc, ánh mắt sáng rực, miệng còn không quên hỏi:
“Doanh cô nương thích thứ gì không? Ta mua rồi đốt cho cô nương.”
Ta nhìn hắn, giọng nửa chế giễu nửa nghiêm túc:
“Ngươi có khả năng kiếm tiền ngẫu hứng thế này, không lẽ lại sống thảm như vậy?”
Lời nói của ta như chạm đến vết thương lòng, hắn cúi mặt xuống, giọng nói cũng trở nên trầm buồn:
“Không giấu gì cô nương, từ ông nội, đến cha ta, rồi đến ta, cả ba đời chẳng ra gì. Tạ gia ngày nay, thật làm ô nhục tổ tiên, ta xấu hổ vô cùng.”
Ta nhìn hắn, trong lòng không khỏi dậy lên một nỗi nghi hoặc.
Không thể nào.
Năm xưa, từng có một vị tướng số tá túc tại Tạ phủ. Ông từng xem mệnh cách cho từng người trong nhà, từ cha ta, đến Tạ Ỷ, rồi đến ta. Mỗi người đều được ông phê một chữ duy nhất.
Tạ Ỷ được chữ “Quý.”
Tướng số nói rằng mệnh cách của Tạ Ỷ phú quý vẹn toàn. Chỉ cần yên ổn thi đỗ khoa cử, thành gia lập thất, từ đời hắn đến con cháu sau này, phúc đức sẽ kéo dài mười đời không dứt.
Cha ta được chữ “Nhiễu.”
Ông bảo rằng cha ta mang quá nhiều thứ trong lòng, tự trói buộc mình vào vòng rối rắm. Nếu cha có thể buông bỏ, chuyên tâm tu đạo, tiền đồ sẽ rộng mở vô lượng.
Đến lượt ta, ánh mắt ta tràn đầy mong chờ.
Tạ gia từ đời này qua đời khác, mệnh cách đều kỳ lạ đặc biệt, chẳng khác nào cấu hình của nhân vật chính trong thoại bản. Là nữ nhi duy nhất của Tạ gia, lẽ nào mệnh ta lại không có gì kinh thiên động địa?
Thế nhưng, vị tướng số kia nhìn mệnh ta hồi lâu, gương mặt ông lộ vẻ khó đoán. Cuối cùng, ông chỉ để lại một chữ duy nhất, ngoài ra không nói thêm câu nào.
Tạ Bán Xuân nhìn thấy chữ ta viết dưới đất, tò mò hỏi:
“Doanh cô nương viết gì vậy? Chữ ‘Ngự’ này là ý gì?”
Ta lắc đầu, giọng nói đầy phiền muộn:
“Chữ này làm ta vướng bận mấy trăm năm qua. Ta cũng chẳng biết rốt cuộc nó có ý nghĩa gì. Thôi, nói chuyện chính đi.”
Ta nghiêm túc nhìn Tạ Bán Xuân. Hắn chỉ đáp lại bằng một vẻ mặt mờ mịt.
“Ngươi nói từ ông nội ngươi đến ngươi, cả ba đời đều không rời khỏi căn nhà cũ, đúng không?”
Hắn gật đầu, ánh mắt lộ vẻ khó hiểu.
Ta ngẫm nghĩ. Là hậu duệ của Tạ Ỷ, Tạ gia lẽ ra không thể sa sút đến mức như vậy, lại còn kéo dài ba đời liền.
Chắc chắn trong ngôi nhà cũ ấy có thứ gì đó ô uế đang ảnh hưởng đến vận khí của hậu nhân Tạ gia.
Ta liếc nhìn bản thân mình, bất giác cảm thấy bất mãn.
Ai là thứ ô uế chứ!
5
Trên đường trở về, Tạ Bán Xuân đã bán được tổng cộng ba mươi hai chiếc ô cán chuông.
Ta thích tiếng chuông ngân vang, hắn lại thích âm thanh đồng bạc va vào nhau leng keng.
Người qua đường không ngừng ngoái nhìn. Trong tiết trời chẳng nắng chẳng mưa, một thư sinh tay cầm chiếc ô giấy ngân tiếng “đinh đang”, vừa đi vừa cười một mình, trông ngô nghê mà ngây ngốc.
Hắn chợt quay sang hỏi:
“Doanh cô nương còn sở thích nào đặc biệt không? Có lẽ từ đó ta lại tìm ra cách kiếm tiền.”
Ta liếc mắt nhìn hắn, giọng nói pha chút bỡn cợt:
“Sở thích của ta nhất định phải là độc nhất vô nhị. Nếu có kẻ nào cùng sở thích, ta liền không thích nữa. May thay, trăm năm qua, tính khí ta đã tốt hơn nhiều. Nếu là trước kia, ngươi dám đem sở thích của ta ra bán như thế, ta nhất định sẽ trị ngươi thật nặng.”
Hắn bật cười, chắp tay làm bộ nghiêm túc:
“Đúng vậy, đều là lỗi của Tạ mỗ. Tạ mỗ xin được nghiêm túc tạ lỗi với Doanh cô nương. Nhưng mà...”
Hắn xoay xoay chiếc ô cán chuông trong tay, vẻ mặt bỗng trở nên đắc ý:
“Những chiếc ô giấy khác, ta đều ghi chữ 'Tạ'. Riêng chiếc đầu tiên làm cho cô nương, ta ghi chữ 'Doanh'. Đây là vật độc nhất dành riêng cho cô nương.”
Hắn cười ngô nghê, ánh mắt sáng lên vẻ tự hào:
“Không giận nữa chứ?”
Lời nói và vẻ mặt ngây ngốc của hắn khiến ta thoáng ngẩn người. Đến khi hắn áp sát khuôn mặt cười khúc khích lại gần, ta mới bừng tỉnh.
“Sao nghiêm trọng vậy? Thật sự giận rồi sao? Nếu vậy, để ta đi đòi lại mấy chiếc ô đã bán.”
Ta vội xua tay, ngăn hắn:
“Thôi được, kiếm tiền quan trọng hơn. Nhưng nhớ kỹ, vật gì quý là vì hiếm. Những chiếc ô kiểu này, ngươi chỉ được bán thêm tối đa hai mươi chiếc nữa.”
Tạ Bán Xuân cười tươi, gật đầu:
“Ta vốn chỉ định bán đủ tiền lộ phí về nhà. Như vậy cô nương có thể ngồi xe ngựa, vừa thoải mái, lại không phải lo nắng gắt.”
Ta thoáng mỉm cười:
“Có đệ như vậy, tỷ còn mong gì hơn.”
Hắn lẩm bẩm, ánh mắt đầy vẻ bất mãn:
“Sao lại thật sự thành đệ rồi...”
Ta còn chưa kịp hỏi rõ, từ con đường nhỏ phía trước, một nha hoàn ôm chiếc ô giấy chạy thẳng tới, vẻ mặt hốt hoảng:
“Là... là Tạ công tử phải không?! Tiểu thư nhà ta từ khi lấy được chiếc ô này, bỗng nhiên bệnh liệt giường. Công tử mau theo ta xem sao!”
Ta và Tạ Bán Xuân liếc nhìn nhau, cả hai đều cảm nhận điều gì đó không ổn.
Người đang bệnh là tiểu thư Hứa Mi – cô nương nổi tiếng ăn diện nhất trong thành.
Từ kiểu tóc đến y phục, từ trâm cài đến vòng đeo, tất cả của nàng đều phải là những món thời thượng nhất. Chiếc ô cán chuông cũng không ngoại lệ, nha hoàn của nàng đã đến mua từ rất sớm.
Nào ngờ, vừa đem về nghịch chưa được một canh giờ, Hứa Mi đột ngột ngã quỵ, lại rơi đúng vào vòng tay của phu quân nàng – Hứa Cẩn Hoài.
Các đại phu đều bó tay. Nha hoàn vội kể rằng, nếu Tạ Bán Xuân không thể chữa cho Hứa Mi, thì ít nhất Hứa Cẩn Hoài cũng sẽ tống hắn vào ngục, chịu án chung thân.
Nhìn dáng vẻ tuyệt vọng như đã quen với những vận xui liên tiếp của Tạ Bán Xuân, ta không khỏi thở dài. Có lẽ với hắn, may mắn vừa đến thì đen đủi đã trực chờ.