NAM HƯƠNG HÀNH

Chương cuối



16.

Tình hình chiến sự ở Thái Nguyên phủ còn tồi tệ hơn ta tưởng.

Giống như ta đã đoán trước, số thông cốt thảo mà Tống Dao Chước thu mua chính là để chế tạo thuốc nổ.

Nhờ có hỏa dược, quân địch liên tục chiếm thế thượng phong, còn quân ta thì công phá mãi không thành.

Sau một lần nữa thất bại, ta nói với Tạ Linh Độ:
“Không thể tiếp tục tấn công trực diện nữa.”

Hắn cũng gật đầu, đồng tình.

Lương thảo và binh mã đều đang cạn kiệt dần, lại thêm mùa đông giá rét, sức chiến đấu của quân ta càng suy giảm.

Ta chăm chú quan sát bản đồ, rồi cất lời:
“Hôm nay ta sẽ đi cùng ngươi.”

Tạ Linh Độ tránh ánh mắt ta, không đáp.

Cho đến trước giờ xuất phát, hắn vẫn không nói gì, chỉ có vẻ mặt đầy lo âu và bồn chồn.

Ta gọi hắn lại, khẽ nhắc nhở:
“Ngươi còn nhớ mình từng nói gì về ta không?”

“Ngươi nói, Khúc Giang là một nữ tử dũng cảm.”

Tạ Linh Độ bất ngờ kéo ta vào lòng. Bờ vai hắn khẽ run lên, giọng nói nghẹn ngào:
“Nhưng Khúc Giang… ta sợ. Ta không nỡ.”

Ta dịu dàng vỗ về hắn, nói khẽ:
“Ta tin ngươi, ngươi cũng phải tin ta.”

 

Như ta dự liệu, trận chiến lần này quân ta vẫn không chiếm được lợi thế.

Khi quân Hung Nô truy đuổi, Tạ Linh Độ chỉ gật đầu với ta một cái rồi quay đầu ngựa, dẫn theo ba đội kỵ binh nhẹ tháo chạy trước.

Hung Nô vương cười vang đắc ý:
“Cái gì mà Tạ tướng quân nổi danh thiên hạ! Chủ soái của bọn chúng bỏ chạy rồi, xông lên! Bắt sống chúng lại!”

Cứ như vậy, đại quân Hung Nô bị Tạ Linh Độ dụ vào khe núi sâu phía Tây Bắc.

Khe núi ấy vừa dài vừa hẹp, khi thấy Tạ Linh Độ không còn đường thoát, Hung Nô vương càng thêm đắc ý:
“Hôm nay bắt sống tên Tạ công tử này, mang về nấu thành canh thịt.”

Đúng lúc ấy, từ trên cao, đá tảng và cây gỗ lăn xuống như mưa.

Quân Hung Nô lập tức rối loạn, la hét tán loạn:
“Rút lui! Mau rút lui!”

Nhưng cửa khe núi sớm đã được quân ta phục kích, quân Hung Nô không còn đường lui.

Từ phía xa, ta thấy khói sói hiệu nổi lên dày đặc ở Tây Bắc, biết rằng kế sách đã thành công.

Ta lập tức dẫn theo một đội kỵ binh vòng lên cao địa, rồi hạ lệnh bắn pháo lửa vào kho hỏa dược trong doanh trại quân địch.

Tiếng nổ lớn vang lên, lẫn trong tiếng kêu thảm thiết của quân địch.

 

Trận chiến Tây Bắc đại thắng, quân ta cuối cùng cũng giành lại thế chủ động.

Trong tiệc mừng chiến thắng, Kỷ Sơn Đình nhìn ta với ánh mắt phức tạp.

Ta chẳng buồn đoán xem hắn đang nghĩ gì, nhưng vì hắn cứ nhìn ta mãi, người nào đó bên cạnh đã bắt đầu bực bội, cái “hũ giấm” liền bị lật đổ.

“Hắn không có thê tử à? Sao cứ nhìn chằm chằm người khác thế?”

Tạ Linh Độ lẩm bẩm đầy chua ngoa:
“À, ta quên mất. Thê tử của hắn giết cả cha mẹ hắn, bây giờ còn ở trong doanh trại địch làm phản tướng nữa cơ mà.”

Ta giơ tay đánh nhẹ vào vai hắn:
“Tích chút đức đi!”

Tạ Linh Độ liếc nhìn ta, giọng đầy oán trách:
“Ngươi xót hắn à?”

Ta hít sâu một hơi, mỉm cười nhẹ nhàng:
“Ta xót ngươi, sợ cái miệng ngươi lại thối ra thôi.”

Tạ Linh Độ lập tức tươi tỉnh trở lại, vẻ mặt rạng rỡ đầy mãn nguyện.

 

17.

Ba ngày sau, quân Hung Nô đại bại.

Trên tường thành, Hung Nô vương dùng một nữ tử áo đỏ làm con tin, giọng đầy căm hận:
“Nữ nhân này chính là vương phi của Thế tử Bắc Cảnh! Nếu các ngươi không lui quân, ta sẽ giết ả!”

Có binh sĩ thấp giọng cười lạnh:
“Thế tử Bắc Cảnh đã không còn, nào còn vương phi gì nữa?”

Dù nói vậy, nhưng chẳng ai dám hành động thiếu suy nghĩ.

Dù Kỷ Sơn Đình bị giáng chức, nhưng Hoàng thượng hiện tại là biểu ca của hắn, lại từng được lão Vương gia Bắc Cảnh phò tá lúc lên ngôi.

Sau này, cho dù thế nào, cũng sẽ không xử tội hắn quá nghiêm khắc.

Lúc này, Tống Dao Chước ngẩng cao khuôn mặt nhợt nhạt, giọng thê lương mà thảm thiết:
“Kỷ lang!”

Kỷ Sơn Đình đứng đó, sắc mặt lạnh băng, không đáp một lời.

Nàng khóc đến lê hoa đái vũ, giọng nói nghẹn ngào:
“Ta sai rồi, Sơn Đình! Nhưng Sơn Đình, ta đã mang cốt nhục của chàng rồi!”

Dưới tà áo đỏ thẫm, bụng nàng quả thực đã hơi nhô lên.

Kỷ Sơn Đình cất giọng khô khốc, lạnh lùng ngắt lời:
“Đủ rồi, đừng nói nữa. Giữa ta và nàng là mối thù ngập máu, còn nói những lời này làm gì?”

Thế nhưng, bàn tay đang cầm trường thương của hắn lại run lên, vô tình tiết lộ cảm xúc thật sự của hắn.

Hung Nô vương nghe vậy càng tức giận, lưỡi đao lại ép sát cổ Tống Dao Chước hơn. Máu gần như trào ra.

Kỷ Sơn Đình vẫn không nhúc nhích.

Nhưng khi Hung Nô vương định đẩy Tống Dao Chước rơi khỏi tường thành, hắn đột nhiên quát lớn:
“Đủ rồi!”

Hắn hạ giọng, thở dài nặng nề:
“Ta rút quân.”

Phía dưới quân sĩ xôn xao, không ai chịu lùi bước.

Thấy vậy, hắn giận dữ quát lên:
“Ta nói lui quân!”

Hắn giơ cao lệnh bài hổ phù do Hoàng thượng ban cho Bắc Cảnh vương phủ.

Lúc này, Tạ Linh Độ cười lạnh một tiếng, giọng nói vang lên đầy mỉa mai:
“Kỷ Sơn Đình, ngươi xem chủ soái như ta đã chết rồi sao?”

Nói xong, hắn giương cung lắp tên, nhắm thẳng về phía Tống Dao Chước.

Mũi tên rời cung xé gió lao đi, Kỷ Sơn Đình tức giận đến tột cùng, đôi mắt đỏ bừng:
“Tạ Linh Độ—!”

Hắn rút kiếm lao thẳng về phía Tạ Linh Độ.

Nhưng ngay khi lưỡi kiếm sắp chạm vào người Tạ Linh Độ, Hung Nô vương bỗng đổ gục xuống.

Tạ Linh Độ đẩy Kỷ Sơn Đình ra, một nhát chém gãy trường thương của hắn, lạnh lùng nói:
“Kẻ phản bội quả thực đáng hận, nhưng ta không hạ thủ với một nữ nhân đang mang thai.”

Nói rồi, hắn quay đầu quát lớn:
“Công thành!”

Kỷ Sơn Đình đứng sững tại chỗ, như hóa thành tượng đá.

 

18.

Ngày đại quân khải hoàn trở về triều, Kỷ Sơn Đình chặn đường ta.

Hắn quỳ gối giữa trời đất, dáng vẻ điên cuồng mà đầy đau đớn.

“Ta nhớ ra rồi, Khúc Giang... Ta nhớ ra tất cả rồi.”

Hắn nói năng lộn xộn, giọng run rẩy như người mất hồn:

“Nhưng vì sao... vì sao bây giờ ta mới nhớ lại mọi chuyện? Vì sao lại là lúc này chứ!”

Ta lặng lẽ nhìn hắn đang đau khổ đến tột cùng, trong lòng không gợn lên chút sóng nào.

Ta đã từng nói rồi, trên đời này, làm gì có thuốc hối hận.

Hắn gào lên, từng tiếng như xé nát ruột gan:

“Ban đầu ta tưởng mình không quan tâm. Nàng gả cho ta, ta chỉ nghĩ bên cạnh mình thêm một món đồ mà thôi.

Nhưng nàng... nàng lại tốt đến như vậy. Nàng thích cười, thích nói, sống động như một chú chim sẻ linh hoạt ở Nam Hương.”

“Ban đầu là không yêu, sau này... là không dám yêu.”

Hôm đó, ta trở về phủ, thứ chờ đón ta lại chỉ là linh cữu của nàng. Nhưng Khúc Giang... ta còn chưa kịp nói với nàng rằng, ta yêu nàng."

Ta nhìn hắn, đáp lại bằng một giọng điệu bình thản:
“Kỷ Sơn Đình, nhưng ta không cần tình yêu của ngươi.”

Ánh mắt hắn tràn ngập lệ quang, giọng nói run rẩy:
“Khúc Giang, vậy nàng muốn gì? Chỉ cần nàng nói, ta đều có thể cho nàng.”

Những ký ức cũ kỹ đan xen trong ta như một sợi dây khô khốc, chỉ chờ một que diêm châm lửa.

“Ta muốn lời xin lỗi của ngươi.”

Lúc mới trọng sinh trở lại, trong giấc mộng của ta vẫn còn đầy bóng hình của trận tuyết phương Bắc năm xưa.

Tuyết phủ trắng cả người ta, rồi khiến ta giật mình tỉnh giấc trong cơn ác mộng.

Ta đã từng nghĩ, đó là bởi trong lòng ta còn vướng mắc với Kỷ Sơn Đình.

Cho đến ngày ta nghe Phí Nhã nói lời xin lỗi với Xuân Hoa, ta mới chợt hiểu ra:

Thứ ta không cam lòng, không phải hắn, mà là chính bản thân ta.

Rõ ràng cha đã ban cho ta cái tên tự do tự tại như dòng nước “Khúc Giang,” vậy mà ta lại giam mình suốt ba mươi năm trong vùng đất lạnh lẽo ấy.

Rõ ràng cái chết của Tống Dao Chước không phải lỗi của ta, nhưng ta vẫn tự trách mình suốt ba mươi năm.

Rõ ràng là Kỷ Sơn Đình hèn nhát và nhu nhược, nhưng ta lại vì hắn mà đánh đổi cả một đời!

Ta cần một lời xin lỗi.

Để ngọn lửa trong tim bùng lên, thiêu rụi hết thảy quá khứ thành tro bụi!

Kỷ Sơn Đình như muốn khóc cạn nước mắt, đôi môi mấp máy, nhưng mãi vẫn không thể thốt ra nổi một câu.

Thật lâu sau, hắn bật cười khổ:
“Ta luôn có cảm giác, nếu nói ra lời xin lỗi này, kiếp này ta và nàng sẽ thực sự chẳng còn liên hệ gì nữa.”

Ta lặng im nhìn về phía những cành mai đang dần hồi sinh trước mặt, không nói một lời.

Kỷ Sơn Đình nhìn ta thật lâu, cuối cùng nghẹn ngào nói:

“Xin lỗi.”

Hắn đứng dậy rời đi, bóng lưng nặng trĩu.

Trước khi khuất xa, hắn nói thêm một câu:
“Bài thơ đó... thực ra ngay từ lần đầu nàng đọc, ta đã ghi nhớ rồi.”

“Nhớ... rất nhiều năm.”

Hắn bước đi, không ngoái đầu nhìn lại. Đó cũng là lần cuối cùng ta gặp hắn.

Ai cũng biết, Kỷ Sơn Đình sẽ không bao giờ trở về nữa.

Không bia mộ, chỉ có một khối gỗ dương khô cằn.

Không viết lời yêu, không nói nỗi buồn, vậy mà lại như đã nói hết tất cả.

Ta thu hồi ánh mắt, xoay người chạy về phía bóng dáng cao lớn đang đứng nơi xa.

Tạ Linh Độ đón lấy ta, đôi mắt trong trẻo khẽ lưu chuyển ánh sáng dịu dàng.

Ta ôm lấy hắn, khẽ nói:
“Nghe nói hoa ở Thúy Lăng đã nở rồi, chàng muốn cùng ta đi xem không?”

Hắn mỉm cười:
“Lần này, ta sẽ kể cho nàng nghe thật kỹ về vẻ đẹp của Thúy Lăng.”

 

“Từ Quách Châu đến Thúy Lăng, tổng cộng ba ngàn bốn trăm trượng. Ven bờ, kỳ thụ mọc thành hàng, vào xuân, hoa nở rộ, hương thơm vạn dặm. Sông Khúc Giang uốn mình chảy qua, đất Thúy Lăng phồn hoa trù phú, bốn mùa ấm áp, quanh năm không có tuyết.”

 

[HẾT]

Chương trước
Loading...