Mời bạn CLICK vào liên kết bên dưới và
Mở Ứng Dụng Shopee để mở khóa toàn bộ chương truyện!
Trường Mộng Đế Vương
Chương 2
4.
Chàng “ừm” một tiếng:
“Thế A Hiền có kế sách nào giải quyết bế tắc này chăng?”
Nghe chàng còn ôn tồn đùa cợt, ta đâm khó chịu, quay lưng lại:
“Không giải, cứ để mặc vậy.”
Chàng áp sát, khẽ cắn bờ vai ta, giọng mơ hồ:
“Là vi phu lười nhác, từ nay đêm đêm cày cấy, để A Hiền khỏi khó xử.”
Ta thẹn đỏ mặt, né tránh không kịp, đành để chàng trêu chọc thêm một trận.
Khi đó, ta mải mê trong cuộc sống êm đềm, hoàn toàn quên mất một điều: chàng vẫn chưa có Chính phi.
Với người Mãn, chưa có vợ chính thức thì dù có thêm bao nhiêu thiếp, cũng không thể gọi là thành hôn.
Con của thiếp, với họ, cốt là để thêm cành lá cho hoàng tộc, càng đông càng tốt.
Đến khi mọi bình yên trong ta bị xáo trộn, chính là lúc Bắc Mông cử hành đại lễ triều kiến định kỳ.
Cũng khi đó, ta lần đầu diện kiến Đan Hạ quận chúa – người sau này trở thành Ninh Vương phi.
Vừa thấy nàng, ta mới hiểu thế nào gọi là thiên chi kiêu nữ.
Đan Hạ xuất thân cao quý, dung mạo diễm lệ, tính tình lại phóng khoáng mãnh liệt, thích diện võ bào đỏ rực, tựa một ngọn lửa bừng cháy giữa tầm mắt mọi người.
Mười sáu tuổi, tiểu quận chúa Đan Hạ vừa đến Nam Đô, lập tức khiến vô số hoàng tử, vương tôn say mê vây quanh.
Tiên Đế vô cùng coi trọng đoàn vương công Bắc Mông, nhiệt tình chiêu đãi, cũng chiều theo mọi ý muốn của nàng.
Trong suốt thời gian quận chúa ở Nam Đô, bên nàng lúc nào cũng dập dìu kẻ ngưỡng mộ.
Ngay cả Huyền Kỳ, vốn ngày thường giữ mình đĩnh đạc, nay cũng ra sức tìm kiếm quà cáp độc đáo để lấy lòng mỹ nhân.
Ta sớm biết mình chẳng thể độc chiếm Huyền Kỳ mãi, ngày chàng nạp Chính phi, sự ôn nhu và yêu thương của chàng hẳn sẽ chẳng còn trọn vẹn dành cho ta.
Chỉ không ngờ giấc mộng ấy mới kéo dài hai năm đã đến lúc tàn.
Ta không có nhan sắc để mê hoặc quân vương, chỉ còn cách gắng sức làm bộ hiền lương, rộng rãi để tranh chút cảm tình.
Ta gạt nỗi chua xót, hiến kế cho Huyền Kỳ:
“Điện hạ, thiếp thấy quận chúa đam mê võ nghệ, chi bằng nương theo sở thích ấy, tặng nàng thứ gì liên quan đến cung mã.
Vài ngày nữa chính là cuộc săn mùa thu của Ngự Lâm quân, ắt hẳn quận chúa muốn thỏa sức tung hoành.”
Huyền Kỳ vốn đang bối rối, nghe thế liền suy nghĩ, ôm ta một cái rồi quay đi lo liệu.
Ta đứng nhìn bóng chàng rời xa, áp tay lên ngực để nén nỗi đau nhói âm ỉ.
Nhẫn Đông lo lắng cho ta:
“Nương nương…”
Ta khẽ gạt tay nàng, ngồi xuống. Thật ra, nếu Đan Hạ quận chúa trở thành Chính phi của Huyền Kỳ, đối với ta cũng là chuyện tốt.
Nàng xuất thân nơi thảo nguyên, tính tình khoáng đạt bộc trực, lẽ nào màng đến việc lo toan trong nội trạch, cũng chẳng ưa tranh giành.
Ít nhất, ta vẫn có thể tiếp tục quản lý phủ đệ, khỏi lo thăng trầm vì sủng ái.
Tiên Đế coi trọng lần triều kiến mười năm một lần của Bắc Mông, nên cuộc săn mùa thu của Ngự Lâm năm ấy quy mô gấp ba lần bình thường.
Ta xưa nay nuôi trong thâm cung, không rành kỵ xạ, nhưng mấy năm trước vẫn cùng đi.
Huyền Kỳ bảo đó là dịp cho ta ra ngoài thay đổi không khí.
Chàng cưỡi ngựa cũng chẳng giỏi, thường khi hai ta chung một con, dắt ngựa đi dạo, ngẫu nhiên gặp chú thỏ xui xẻo nào, ta lại có thêm một chiếc khăn lông thỏ.
Nhưng năm nay, nghĩ đến cảnh chứng kiến Huyền Kỳ ân cần cận kề Đan Hạ, ta thực không vui, bèn từ chối lời mời của chàng.
Huyền Kỳ hình như hiểu tâm ý ta, chỉ lẳng lặng nhìn ta đăm đăm, hỏi:
“A Hiền, nàng không ưa Đan Hạ sao?”
Ta lập tức gượng tỉnh:
“Thiếp nào dám, quận chúa đơn thuần hoạt bát, ai mà chẳng quý?”
Chàng lắc đầu:
“Nàng biết ý ta không phải vậy.”
Nụ cười nơi khóe môi ta dần tắt, một lúc sau mới đáp:
“Nhưng quận chúa rất quan trọng với điện hạ, đúng không?”
Chàng chẳng phủ nhận, gương mặt ẩn trong bóng tối, khó đoán vui buồn.
Bắc Mông là đồng minh quan trọng của Tiên Đế; với các hoàng tử, quận chúa Đan Hạ lại là chìa khóa chạm đến ngai vàng.
Trước mặt, họ đua nhau lấy lòng quận chúa, nhưng kỳ thực, mục đích chính là thế lực Bắc Mông sau lưng nàng, thậm chí là chính long ỷ của Tiên Đế.
5.
Ta biết tình cảnh của Huyền Kỳ không mấy khả quan, lý trí cũng rất hy vọng chàng có thể chiếm được cảm tình của Quận chúa.
Ta thở dài, cột chiếc túi hương vừa thêu xong trong ngày vào thắt lưng chàng, rồi vòng tay ôm lấy eo chàng:
“Điện hạ, bình an trở về. Nếu có thể, xin mang về cho thiếp một chiếc khăn lông thỏ.”
Chàng khẽ vuốt má ta, không nói lời nào, quay lưng bỏ đi.
Nửa tháng sau, Huyền Kỳ vẫn chưa về phủ, nhưng chuyện xảy ra trong kỳ săn mùa thu còn truyền về Nam Đô nhanh hơn cả hành trình của chàng.
Quận chúa Đan Hạ hiếu thắng, đích thân xông vào bãi săn, tỷ thí cùng chư vị hoàng tử.
Nhị hoàng tử Huyền Lân xuất sắc giành ngôi đầu, thắng cuộc so tài, cũng đoạt được sự chú ý của Quận chúa.
Từ khi đến Nam Đô, Đan Hạ đối với đám vương tôn công tử vây quanh mình đều dửng dưng, duy chỉ sau lần thua dưới tay Huyền Lân, nàng bỗng đổi khác hẳn, theo sát chàng hỏi han, nụ cười e ấp, lòng thiếu nữ vừa chớm nở lộ rõ không lẫn vào đâu.
Tin ấy truyền đến khiến ta nặng lòng.
Ai cũng được, cớ sao lại là Huyền Lân?
Huyền Kỳ và Huyền Lân, cả hai đều do Hoàng hậu sinh ra, là cặp song sinh, đương nhiên so với các hoàng tử do phi tần khác sinh thì địa vị càng gần ngai vàng hơn.
Từ sau khi ta thành thân với Huyền Kỳ, thường ngày cũng hay gặp vị đệ đệ này.
Ngũ quan chàng ta giống hệt Huyền Kỳ, chỉ là thân hình vạm vỡ hơn, phong thái ôn nhã dễ mến.
Khi tiếp xúc, ta cảm nhận huynh đệ hai người vô cùng hòa thuận, Huyền Lân cũng chỉ biết ngước theo huynh trưởng.
Nhưng đó là câu chuyện trước kia.
Bàn về thế lực nhà thê tử, ai sánh nổi Bắc Mông? Một khi Huyền Lân có được trái tim Quận chúa, hắn há có thể an phận làm vương gia mà không mơ cao?
Mười ngày sau, Huyền Kỳ cuối cùng về phủ.
Khác hẳn nỗi lo sầu chất chứa nơi ta, chàng chẳng tỏ vẻ gì của kẻ thất ý tình trường.
Điều chàng nói với ta đầu tiên lại là năm nay vận may không tệ, bắn được một con cáo, đã sai người đi xử lý lông, để đông này ta có khăn lông cáo ấm áp hơn.
Ta nghe vậy dở khóc dở cười, chàng hóa ra vẫn nhớ đến chuyện đó.
Việc nơi Mộc Lan Viên lần này, chàng chẳng giấu giếm, đêm đến liền kể tường tận cho ta nghe.
Ta không khỏi hiện nét âu lo, nhưng chàng lại an ủi ngược:
“Huyền Lân mới tốt.”
Trong hoàng tộc, chuyện cha con tàn sát, huynh đệ bất hòa không thiếu, nhưng Huyền Kỳ lại tin tưởng người đệ song sinh vô điều kiện.
Chàng cười nói:
“A Hiền, đừng bận tâm. Ta tin Huyền Lân, không phải tin hắn không hại ta, mà là nếu hắn thực sự muốn lấy mạng ta, ta cũng nguyện dâng.”
Tim ta thắt lại, làm sao chàng có thể thốt ra lời khiến người ta kinh hoảng như thế.
Ta trở mình đè lên chàng, cúi đầu bịt kín miệng chàng, không cho chàng nói những điều không may.
Chàng khẽ bật cười, phất tay hạ màn trướng, che lấp một mảng xuân sắc trong phòng.
Ta vốn cho rằng Quận chúa đã động chân tình, hẳn sẽ sớm nghe tin thành hôn.
Nào ngờ hôn sự giữa Đan Hạ và Huyền Lân phải trải qua muôn ngàn trắc trở.
Mãi nửa năm sau kỳ thu săn, Tiên Đế mới chính thức hạ chỉ, phong Huyền Lân làm Ninh Vương, thành thân cùng Đan Hạ.
Cùng lúc ấy, Huyền Kỳ được lập làm Thái tử, ta cũng nhờ phu quân mà thăng vị, trở thành Thái tử Trắc phi.
Tiếp đó, mọi việc dường như dồn dập hơn.
Chỉ trong vòng mấy tháng, Tiên Đế vốn tinh lực dồi dào bỗng đổ bệnh không gượng dậy nổi, rồi chẳng bao lâu sau thì băng hà.
Khi đó, phụ thân ta là Đại thần Quân Cơ đứng đầu, trở thành nhân vật chủ chốt trong hàng ngũ quan lại người Hán.
Nhờ sự ủng hộ của phụ thân ta, Hoàng thân ngoại thích, cùng áp lực quân sự từ Bắc Mông, Bình Kiếm Vương Minh Triệt cuối cùng không dám làm loạn.
Huyền Kỳ bình an lên ngôi.
Sau đó, chàng phong ta làm Hậu.
Thật nằm ngoài dự liệu, đến lúc nhận chỉ sắc phong Hoàng hậu, ta còn ngây ngẩn quên cả tiếp chỉ.
Phải đợi Nhẫn Đông nhắc nhở, ta mới giật mình quỳ xuống.
Năm đó, ta vừa tròn hai mốt tuổi.
Huyền Kỳ giải thích, việc lập ta làm Hậu đã cân nhắc kỹ càng.
Một là, phụ thân ta cùng cả nhà họ Thôi đã dốc tất cả để ủng hộ chàng lên ngôi, chàng ắt phải dùng một ngôi vị Hoàng hậu để tỏ lòng ghi nhận.
Hai là, người Mãn nhập Trung Nguyên qua ba đời, nhưng những kẻ bảo thủ do Bình Kiếm Vương dẫn dắt vẫn xem người Hán là hạ đẳng; chàng phong ta làm Hậu, chính là muốn đề cao ý nghĩa Mãn – Hán một nhà, hấp dẫn thêm nho sĩ Hán tộc quy phục.
Ba là… chàng ghé tai hỏi ta:
“A Hiền, nàng đoán ý thứ ba của trẫm là gì?”
Hơi thở ấm nóng thoảng qua vành tai khiến ta chợt gấp gáp, bèn khẽ hỏi lại:
“Có phải nhờ thiếp có chút tài quán xuyến, nên được bệ hạ để mắt?”
Trong mắt chàng lộ ý cười:
“Sai rồi.”
“Đã sai thì phải chịu phạt.”
6.
Mặt ta đỏ bừng, phải đón nhận sự “trừng phạt” của chàng.
Người ngoài đều đồn tân đế trầm ổn ít nói, đó là vì họ chưa thấy được nét cuồng dã của chàng giữa chốn khuê phòng.
Xong xuôi, chàng lại ôm ta – lúc này tứ chi rã rời – vào lòng, nhẹ nhàng bảo:
“Điều thứ ba, ấy là tâm nguyện của trẫm.
Thôi Doãn Hiền, trẫm rất thích nàng. Trăm năm về sau, trẫm chỉ nguyện hợp táng cùng nàng.”
Niềm vui từ lòng lan khắp tứ chi, ta vui đến rơi lệ.
Nhiều năm về sau, ta chẳng đếm nổi bao lần mong thời gian dừng lại tại khoảnh khắc đó.
Thậm chí, nếu có thể chết đi ngay lúc ấy, e rằng cũng tốt hơn phải chịu đựng cơn đau xé lòng trong tương lai.
Huyền Kỳ đăng cơ, nhưng Bình Kiếm Vương Minh Triệt vẫn nuôi chí với ngôi báu.
Mưu sâu kế độc, hai bên kẻ tung người hứng, trong khi nền tảng của Huyền Kỳ chưa vững, số lần thất bại nhiều hơn thành công.
Trận thua thảm nhất, chàng buộc phải phong Minh Triệt làm Nhiếp chính vương.
Kể từ đó, chàng bắt đầu phát bệnh đau đầu, thể trạng ngày một yếu.
Thái y dặn phải tĩnh dưỡng, không nên gắng sức chuyện chính sự.
Nhưng buông lỏng triều cương chẳng phải điều Nhiếp chính vương mong mỏi ư?
Giữa thế tiến thoái lưỡng nan, Huyền Kỳ nắm tay ta, mong ta đứng ra phò tá triều chính.
Ta hết hồn, dẫu triều này không cấm hậu cung can chính, song xưa nay vẫn chưa từng có tiền lệ.
Nếu việc này lộ ra, không chỉ ta, mà cả cha ta cùng nhà họ Thôi đều bị người đời chỉ trích nặng nề.
Khuôn mặt trắng bệch của Huyền Kỳ vẫn điểm một nụ cười:
“A Hiền, đừng tự xem nhẹ. Bản ‘Trị An Sách’ của nàng viết thật xuất sắc, nàng có tài trị thế.”
Ta ngây người chốc lát, vội chống chế:
“Bệ hạ, ‘Trị An Sách’ là bút tích của huynh thiếp, người nhầm rồi.”
Chàng khẽ ho, ánh mắt nhìn ta sâu thẳm:
“Vậy cớ sao bản lưu truyền thiên hạ chỉ có mười điều, còn bản thủ chép giấu trong Tư Trị Thông Giám của nàng lại có đến mười hai điều?”
Lời biện bạch suýt trào ra, rằng huynh ta đã cân nhắc cắt bớt hai điều, ta chỉ giữ bản nháp.
Nhưng bắt gặp vẻ nhìn thấu mọi chuyện nơi chàng, ta biết không thể giấu được nữa.
Thấy ta lặng im, chàng cười nhẹ:
“Không sao, A Hiền. Có trẫm đây.”
Ta không kìm được mà hỏi:
“Bệ hạ còn thấy gì khác trong Tư Trị Thông Giám không?”
Chàng tỉnh bơ:
“Trẫm lẽ ra nên thấy thêm gì?”
“Không… không có.” Ta chột dạ, chẳng dám nói thêm.
Từ đó, mỗi khi Huyền Kỳ bệnh tái phát, ta thay chàng xử lý chính sự, gặp vấn đề nan giải mới bẩm lại.
Lâu dần, ta càng hiểu rõ triều cục hơn cả người hậu cung, cũng thấy được Huyền Kỳ xưa nay sống như đi trên băng mỏng.
Theo tập tục người Mãn, phần lớn bọn cựu thần đều chọn đứng về phía Nhiếp chính vương.
Mọi động tĩnh trong triều thường bị lực lượng vô hình khống chế, mệnh lệnh của Hoàng đế khó bề thi hành.
Ngay cả ta, người được tạm quyền xử lý chính sự, cũng thấy áp lực của Nhiếp chính vương luôn đè nặng.
Bề ngoài có vẻ bình yên, nhưng sóng ngầm cuộn trào, hoặc chúng ta diệt trừ thế lực của Nhiếp chính vương, hoặc sẽ bị họ gặm mòn sạch sẽ.
Rốt cuộc, ba năm trước trong kỳ thu săn của Ngự Lâm, Nhiếp chính vương lộ nanh vuốt đầu tiên.
Hắn ra tay bất ngờ như sấm vang chớp giật, chém đứt một cánh tay của Hoàng đế – chính là Ninh Vương.
Ninh Vương chết, nếu Vương phi quay về Bắc Mông rồi tái giá, Hoàng đế liền mất đi sự răn đe bằng binh quyền Bắc Mông, chẳng khác nào thua cuộc hoàn toàn.
May thay, Ninh Vương phi nặng tình với phu quân, quyết ý thủ tiết.
Nhưng nàng còn quá trẻ, có thể thủ được bao lâu? Quả nhiên chỉ ba năm đã chịu không nổi.
Mà “gian phu” lại chính là Hoàng đế. Với ta, điều ấy chưa hẳn là tin tệ nhất, chí ít nó buộc Bắc Mông khó lòng đứng ngoài, ắt sẽ phải nhúng tay vào cục diện này.