Mời bạn CLICK vào liên kết bên dưới và
Mở Ứng Dụng Shopee để mở khóa toàn bộ chương truyện!
NAM HƯƠNG HÀNH
Chương 2
4.
Tháng bảy ở bến đò Qua Châu, chuyến thuyền cuối cùng đi Bắc Cảnh đã chuẩn bị rời bến.
Lão chèo thuyền thành thục gọi những hành khách lên thuyền, rồi quay lại vẫy tay với ta:
“Khúc Giang, mau lên thuyền. Trễ chuyến này, phải đợi đến đầu xuân năm sau mới đi được đấy.”
Từ mùa thu, cửa sông Bắc Cảnh bắt đầu đóng băng, thời gian thông hành chỉ vỏn vẹn ba tháng.
Lão chèo thuyền từng là thuộc hạ của thủy quân nhà ta, biết chuyến đi này của ta là để gả về Bắc Cảnh.
Thấy ta vẫn đứng yên tại chỗ, ông lại đùa:
“Lỡ mất chuyến này, chắc sẽ chẳng gặp được phu quân đâu nhé.”
A Man nhăn nhó đứng bên cạnh, phàn nàn:
“Thế tử Bắc Cảnh kia thật quá đáng, cưới vợ mà cũng không phái người đến đón.”
Đúng vậy, nếu ta là người hắn yêu thương, làm sao hắn có thể để ta vượt ngàn dặm xa xôi tìm đến đây, hắn lẽ ra phải tự mình đến đón mới phải.
Ta vỗ vai A Man, khẽ hỏi:
“Ngươi có sợ lạnh không?”
A Man ngáp một cái, đáp:
“Sợ lắm ạ.”
Ta nở một nụ cười:
“Ta cũng vậy. Nghe nói Bắc Cảnh quanh năm gió tuyết, chúng ta đừng đi nữa.”
A Man còn chưa kịp phản ứng, ta đã kéo nàng lên chuyến đò xuôi về phương Nam.
“Tiểu thư! Người quá hồ đồ rồi. Không đi Bắc Cảnh, người sẽ làm gì đây?”
Ta cúi đầu nhìn dòng nước chảy xiết bên dưới, đáp nhẹ nhàng:
“Ngươi xem dòng sông này, nó chảy bốn phương tám hướng, đi đâu cũng tự do cả.”
Ta vốn như dòng nước tự do, cớ gì phải làm một cánh chim lồng giam?
A Man ngơ ngác nhìn ta, rồi lại níu chặt lấy tay áo ta, giọng nũng nịu:
“Tiểu thư đi đâu cũng được, nhưng không được bỏ lại A Man.”
Ta bật cười trách nàng lắm lời, cả hai đùa nghịch đến rối cả lên.
Đột nhiên, thuyền khẽ nghiêng, tiếng kinh hô từ khoang thuyền vọng lên.
Thì ra có một người từ bờ nhảy lên thuyền, thân pháp gọn gàng như chim én xé gió.
Người nọ mặc áo xanh, dáng vẻ phong lưu, đôi mắt đào hoa sáng ngời như làn nước trong vắt của dòng sông.
A Man nhìn đến ngây người, lắp bắp một câu:
“Ai da… sắc như hoa xuân vậy!”
Nghe thế, công tử kia quay đầu, trừng mắt nhìn A Man đầy tức tối.
Ta vốn đã bất mãn với hành động xông lên thuyền lỗ mãng của hắn, nay thấy hắn còn vô lễ với A Man, càng thêm khó chịu.
Ta hờ hững nói với A Man:
“Sắc như hoa xuân cái gì chứ? Ta chỉ thấy một con bọ ngựa xanh nhảy vọt lên thuyền thôi!”
A Man cười đến gập cả người, không ngừng nắc nẻ.
Công tử kia nghe vậy liền nhìn ta, ánh mắt lóe lên một tia bất ngờ, nhưng hắn không nói gì.
Mãi đến khi ta và A Man đùa nghịch bên mạn thuyền, bị sóng nước vỗ ướt cả mặt, giọng nói trong trẻo nhưng lạnh lùng của hắn mới vang lên:
“Ô kìa, trên thuyền này từ khi nào lại có thêm hai con vịt hoa rớt nước vậy?”
Ta ngẩng đầu, lạnh lùng nhìn hắn, ánh mắt hắn cũng sâu thẳm đối diện ta.
Một lúc lâu sau, hắn chắp tay thi lễ, nói:
“Tại hạ là Tạ Linh Độ. Dám hỏi tiểu thư xưng hô thế nào?”
Trước lời nói của hắn, ta khẽ ngạc nhiên. Người trước mắt… lại là Tạ Linh Độ ư?
Tạ gia là thế gia danh tiếng bậc nhất Trung Nguyên, chỉ có con cháu trực hệ mới được mang chữ "Linh" trong tên.
Thấy ta có chút chần chừ, Tạ Linh Độ nhếch môi cười, hỏi:
“Ngươi biết ta sao?”
Ta không biết nên gật đầu hay lắc đầu.
Ta biết hắn, chính xác hơn là biết con người của hắn ở kiếp trước.
Dù ta ở tận Bắc Cảnh, cũng nghe danh Tạ gia xuất hiện một nhân tài trăm năm hiếm có.
Khi bước qua tuổi tứ tuần, hắn đã được phong làm Thái sư.
Năm đó, ta theo Kỷ Sơn Đình trở về kinh thành dâng lễ.
Để tỏ lòng đãi ngộ, trong yến tiệc, toàn bộ bàn ăn đều bày món ăn Bắc Cảnh.
Duy chỉ có bàn của ta, lại có vài món điểm tâm Giang Nam và đặc sản cá tươi theo mùa.
Người hầu nói: “Tạ đại nhân biết vương phi rời quê đã lâu nên đặc biệt chuẩn bị.”
Ta ngẩng đầu đầy ngờ vực, người đàn ông ngồi ở vị trí cao kia khẽ gật đầu, gương mặt nghiêm nghị và trang trọng.
Lần thứ hai gặp mặt, Kỷ Sơn Đình nhất quyết muốn truy phong Tống Dao Chước làm vương phi. Chính Tạ Linh Độ đã thẳng thừng bác bỏ.
Vị tướng thần cao ngạo đứng giữa Kim Loan Điện, thân hình thẳng tắp, không kiêu ngạo, không xu nịnh:
“Bắc Cảnh Vương lấn lướt như vậy, thật xem Trung Nguyên này không còn ai nữa sao?”
Nhưng giờ đây, ta thực sự không thể đem người thiếu niên hoạt bát trước mặt liên hệ với vị Tạ Thái sư trầm ổn, cẩn trọng của kiếp trước.
Thấy ta im lặng, hắn sốt ruột thúc giục:
“Ta đã nói tên của mình rồi, ngươi mau nói tên ngươi đi!”
Ta vừa mở miệng, hắn đã ngắt lời:
“Không được dùng tên giả!”
Ta đành nuốt lại cái tên giả đã chuẩn bị từ trước, đáp:
“Ta là Khúc Giang.”
“Khúc Giang?” Hắn khẽ lặp lại, ánh mắt như có suy tư gì đó.
Rồi hắn lại nói:
“Khúc Giang nước chảy, hoa ngàn cây. Núi biếc vây mây, trăng tựa câu. Nàng là người ở Thúy Lăng?”
Ta khẽ lắc đầu.
Hắn lại mỉm cười:
“Vậy nàng đã từng đến Thúy Lăng chưa? Nơi đó đẹp lắm.”
Ta vẫn lắc đầu.
Hắn vẫn chưa chịu thôi:
“Thế nàng có muốn đi không? Ta có thể dẫn nàng đi, tiện đường mà.”
A Man trừng mắt nhìn hắn, hừ một tiếng:
“Bọn ta không dám tin ngươi đâu.”
Tạ Linh Độ nhướng mày cười, rút từ trong ngực áo ra một quyển du ký sơn thủy rồi đưa cho ta.
“Ta đã đi qua rất nhiều nơi, chắc chắn không để nàng lạc đường đâu.”
Ta nhìn bốn chữ “Tinh Dã Kì Khách” nổi bật trên bìa sách, trong lòng như có trống trận dồn dập vang lên.
Kiếp trước, khi bị vây khốn nơi đất Bắc Cảnh đầy gió tuyết, chính những cuốn du ký của Tinh Dã Kì Khách đã giúp ta nhìn thấy sông núi phía Nam qua từng trang sách.
“Ngươi là Tinh Dã tiên sinh?”
Tạ Linh Độ cười đắc ý, mang theo vẻ phong lưu tự tại như gió núi mây ngàn.
Hắn nghiêng người ghé lại gần ta, nở nụ cười sáng rỡ:
“Khúc Giang, cùng ta đến Thúy Lăng đi.”
5.
Tạ Linh Độ dường như mang theo một thứ ma lực kỳ lạ.
A Man, người vừa rồi còn hậm hực trừng mắt với hắn, giờ lại ngoan ngoãn ngồi nghe hắn ba hoa, vẻ mặt đầy vẻ say mê.
Hắn kể rằng Tây Tái có cát vàng cao đến trăm trượng, khi gió nổi lên, trời đất đều bị che khuất, nhưng giữa mênh mông hoang mạc ấy lại có một động cổ, trong đó cất giữ vạn quyển kinh văn và vô số bích họa tráng lệ, như bước vào tiên cảnh Côn Luân.
Hắn lại nói Đông Lai có biển xanh mênh mông, từng con cá Côn to lớn tựa lầu gác, mỗi lần lặn xuống hay nhảy lên mặt nước đều tạo thành sóng trắng dâng trời.
A Man nghe mà mê mẩn, níu lấy tay hắn, tò mò hỏi:
“Vậy còn Thúy Lăng thì sao?”
Ta cũng khẽ dựng tai lắng nghe.
Tạ Linh Độ liếc nhìn ta một cái, chậm rãi ngồi thẳng người, giọng điệu bỗng trở nên nghiêm túc, hắn nhàn nhạt cất lời:
“Thúy Lăng thì càng không thể nói hết được.”
A Man sốt ruột truy hỏi:
“Làm sao?”
Tạ Linh Độ lại bày vẻ thần bí, nhếch môi cười nhạt:
“Đến nơi rồi các ngươi sẽ tự biết.”
A Man hừ một tiếng, phàn nàn:
“Nói chuyện giữ lại nửa câu, cẩn thận lúc đi vệ sinh không có giấy mà dùng!”
Tạ Linh Độ nhướng mày, đôi mắt xanh nhạt lóe lên ánh cười, hắn hạ giọng nói:
“Nghe nói gần đây con kênh này không yên ổn, thủy phỉ ở Hoài Đông đang lẩn trốn khắp nơi. Không biết chuyến này có gặp phải không?”
Ta thấy trong lời hắn còn ẩn ý, bèn hỏi:
“Vậy thì sao?”
Hắn nhướng mày đầy đắc ý, khóe môi cong lên:
“Vậy nên, cần có một anh hùng như ta hộ tống bên cạnh.”
Hắn không đội mũ, chỉ dùng một chiếc khăn lụa đơn giản buộc mái tóc, đôi mắt trong trẻo tựa như linh hồ lanh lợi, ánh lên vẻ tinh ranh.
Ta che miệng bật cười. Trọng sinh một đời, lại được thấy Tạ Thái sư kiêu hùng trầm ổn kiếp trước trở thành kẻ phóng túng nghịch ngợm như bây giờ, thực đúng là một chuyến đi không uổng phí.
Nhưng miệng của Tạ Linh Độ không chỉ lắm lời mà còn linh nghiệm vô cùng!
Chưa đi được nửa đường, thuyền đã gặp phải tai họa.
6.
Đêm buông xuống, trên mặt sông chỉ còn lác đác vài ánh đèn chài leo lét.
Phía trước, từ nhánh sông rẽ vào, một con thuyền khác bất ngờ tiến tới.
Ban đầu lão lái thuyền còn chưa chú ý, nhưng con thuyền ấy càng lúc càng nhanh, thẳng hướng thuyền chúng ta mà lao tới.
“Không ổn rồi, ngược dòng vượt sông mà không cắm cờ hiệu… đây là quỷ thuyền!”
"Quỷ thuyền" là tiếng lóng của dân sông nước, dùng để chỉ bọn thủy phỉ và cướp bóc.
Trong khoang thuyền lập tức nhốn nháo cả lên.
Hành khách trên thuyền đa phần là dân thường về quê, phụ nữ và trẻ con chiếm phần lớn, đâu có khả năng chống đỡ.
Ta còn chưa kịp hành động, Tạ Linh Độ đã kéo ta lại, thấp giọng ra lệnh.
Hắn xách theo thanh kiếm bên hông, dùng một chiếc áo tơi trên thuyền phủ kín người ta và A Man.
“Đừng lên tiếng, cũng đừng ra ngoài.”
Nói xong, hắn liền chui ra khỏi khoang thuyền.
A Man nắm chặt tay ta, mắt nhắm nghiền, toàn thân run rẩy, lẩm bẩm:
“Tạ Linh Độ đúng là cái miệng quạ đen mà!”
Trong lòng ta thầm tính toán, nếu chỉ là thủy phỉ thông thường, có thể dùng tiền bạc để xua đuổi hoặc trực tiếp trấn áp bằng vũ lực. Nhưng nếu thật sự là bọn thủy khấu Hoài Đông, thì e là chuyện lớn rồi.
Thủy khấu Hoài Đông gây loạn đã ba năm, tuy triều đình đã tiêu diệt phần lớn thế lực của chúng, nhưng vẫn còn một số toán nhỏ lẩn trốn.
Bọn chúng đều là kẻ liều mạng vì triều đình đã ban lệnh “gặp là giết”, những kẻ còn sót lại này không cướp của mà chỉ lấy mạng người.
Vừa rồi, khi nhìn thấy ánh lửa xanh lập lòe trên con “quỷ thuyền”, ta đã đoán chắc chúng chính là bọn thủy khấu Hoài Đông.
Ta nhẹ nhàng chui ra khỏi khoang thuyền, Tạ Linh Độ lập tức nhíu mày, quát khẽ:
“Ra đây làm gì? Mau quay lại!”
Lúc này, hắn đứng thẳng người, tay nắm chặt thanh kiếm, khí thế lập tức biến đổi.
Cái vẻ bất cần đời phong lưu khi nãy đã hoàn toàn biến mất, thay vào đó là một Tạ Linh Độ nghiêm nghị và sắc bén như một thanh kiếm rút khỏi vỏ.
Tạ gia vốn xem trọng gia phong, đối với con cháu trong tộc, “lục nghệ của bậc quân tử” không thể thiếu một thứ, kiếm đạo là bắt buộc trong đó.
Ta không hề nghi ngờ bản lĩnh của Tạ Linh Độ. Dù sao, ở triều ta, chức Thái sư không chỉ đảm nhiệm văn chức mà còn nắm cả quyền binh.
Chỉ là, đem toàn bộ hy vọng gửi gắm vào một người, cảm giác này thật sự chẳng dễ chịu gì.
Ta nhìn con thuyền đang dần áp sát, bình tĩnh nói:
“Địch đông ta ít, thay vì liều mạng giao đấu, chi bằng dùng kế.”
Hắn cau mày hỏi:
“Kế gì?”
“Hỏa công.”
Lời ta vừa dứt, lão lái thuyền đã nhăn nhó buông lời chế giễu:
“Cô nương đừng gây thêm rắc rối nữa. Chúng ta lấy đâu ra điều kiện đó, vả lại đợi đến khi lửa cháy khắp nơi, cả thuyền này cũng thành quỷ dưới đao bọn chúng!”
Những lời than trách vang lên khắp nơi, nỗi hoảng loạn và bất an khi gặp thủy phỉ giờ đã có nơi để phát tiết.
Có người còn oán giận, trách móc lão lái thuyền vì sao lại cho ta, một nữ tử độc thân, lên thuyền:
“Độc thân một mình mà còn lang thang khắp nơi, chắc chắn chẳng phải loại tốt đẹp gì!”
Lời lẽ mỗi lúc một cay nghiệt, có kẻ còn ác ý hơn, buông lời độc địa:
“Không bằng đem hai ả này dâng cho bọn thủy phỉ, may ra chúng ta còn có đường sống!”
Trong đêm gió lạnh, một nhát kiếm của Tạ Linh Độ lập tức chém rơi búi tóc của kẻ lớn tiếng nhất.
“Ta thấy không bằng trước tiên đem ngươi dâng lên.”
Xung quanh lặng ngắt như tờ.
Tạ Linh Độ nhìn ta, ánh mắt kiên định, không hề có chút nghi ngờ:
“Nàng nói tiếp đi.”
Ta gật đầu, trấn tĩnh nói:
“Ta thấy trên thuyền này phần lớn là các thợ thêu từ Tô Châu về quê. Thêu thùa là công việc đòi hỏi sự khéo léo của đôi tay, mà thợ thêu lại rất chú trọng dưỡng tay. Vừa hay ở bến đò Qua Châu, dầu hạt thầu (dầu thầu dầu) vừa tốt lại rẻ, nên chắc chắn họ đều có mang theo. Dầu hạt thầu rất dễ cháy, kết hợp với dầu đồng trên thuyền dùng để bảo dưỡng gỗ, là đủ rồi.”
Lão lái thuyền thoáng sững sờ, nhưng vẫn ngập ngừng hỏi:
“Nhưng làm sao để đảm bảo đối phương sẽ cháy hết? Nhỡ đâu…”
Ta ngắt lời ông, ánh mắt nhìn về phía ánh lửa xanh mờ mờ trên quỷ thuyền, giọng chắc nịch:
“Không có ‘nhỡ đâu’.”
Bọn thủy khấu Hoài Đông thích phô trương thanh thế, thường vẽ hình xích hầu (một loại linh vật) trên mũi thuyền, trong khoang thuyền còn đốt lửa ma trơi để dọa người.
Thứ lửa ấy chính là phấn của bướm lửa khô núi, gặp lửa liền cháy, mà nước lại không thể dập tắt.
Lúc này, không còn ai oán trách hay cười nhạo nữa. Mọi người vội vàng hành động, người lấy dầu đồng, người buộc những thiết bị dẫn lửa tạm thời.
Quỷ thuyền càng lúc càng đến gần. Còn chưa kịp mở lời uy hiếp, con thuyền ấy đã biến thành một ngọn lửa lớn giữa dòng sông.
Có tên thủy phỉ nhảy xuống nước chạy trốn, nhưng trên người dính phấn lửa, chỉ có thể trở thành những quả cầu lửa lăn lộn trong dòng nước.
Lão lái thuyền nhanh chóng đổi hướng, chèo thuyền về phía phủ quận gần nhất, bỏ lại con quỷ thuyền rực cháy ở phía sau.
Thoát chết trong gang tấc, cả thuyền vỡ òa trong niềm vui sướng và nhẹ nhõm.
Trên boong thuyền, người người tụ tập dưới bầu trời đầy sao, gió đêm mơn man thổi qua, có người bắt đầu hát lên điệu dân ca Qua Châu.
Kẻ vừa nãy mang ác ý giờ bị mọi người đẩy đến trước mặt ta. Hắn cúi đầu, mặt đỏ bừng, rồi phịch một tiếng quỳ xuống:
“Cô nương đại nghĩa, là ta có lỗi. Muốn đánh muốn phạt, ta đều chịu cả.”
Mái tóc rối che một bên mặt, trong đôi mắt thô ráp ấy lại lấp lánh ánh lệ.
A Man giận dữ nghiến răng:
“Thế thì để ta đá ngươi xuống sông một trận cho xong!”
Ta quan sát đôi bàn tay chai sạn của hắn, quần áo tuy mộc mạc nhưng bên hông lại đeo một chiếc túi thơm tuy cũ kỹ nhưng tinh xảo.
Lại nghe hắn nói giọng phương ngữ Tứ Xuyên, trong lòng ta đã hiểu rõ.
Mấy năm gần đây, đất Thục gặp đại hạn, không ít đàn ông phải rời quê đi xa làm ăn. Hắn chắc đã rời nhà nhiều năm, nay chắt chiu được chút bạc để trở về. Ta có thể hiểu được nỗi khổ ấy.
Ta ngăn A Man lại, nhẹ giọng nói:
“Không cần đâu. Đi xa nhà, ai cũng khó khăn cả.”
Nếu thế gian này có thể thêm một chút thấu hiểu, thì những kẻ đường cùng bỏ trốn lúc bị vây khốn cũng sẽ có thêm vài phần can đảm, phải không?
Gã đàn ông ấy cảm kích đến rơi nước mắt, lấy từ túi ra một bình rượu Thục mà hắn giấu kỹ, rót mời mọi người trên thuyền mỗi người một chén.
Ta nhấp một ngụm rượu thơm cay, ngắm nhìn bóng nước lấp lánh trong đêm, lần đầu tiên ta cảm nhận được một chút tự do.
Đột nhiên, có ai đó nhẹ nhàng kéo vạt áo ta.
Là Tạ Linh Độ.
Hắn vận áo xanh phấp phới, gương mặt như ngọc dưới ánh trăng, thoạt nhìn tựa như tiên nhân sắp hóa thân bay đi.
Chỉ có ánh mắt lại lộ vẻ đáng thương:
“Cô nương đại nghĩa, ta cũng nói sai rồi. Muốn đánh muốn phạt, ta cũng không cãi một câu.”
Ta ngơ ngác:
“Ngươi nói sai gì cơ?”
Hắn che miệng cười trộm, ánh mắt lấp lánh:
“Ta sai rồi. Trước đó lẽ ra phải nói rằng, chuyến đi này bất ổn, cần có một nữ tử dũng cảm như Khúc Giang nàng đồng hành mới phải!”
Giữa con nước yên ả, đôi mắt hắn sáng rực lạ thường.
Ta quay mặt đi, tim bỗng xao động đôi phần.
Cùng lúc ấy, ở nơi xa vạn dặm, chuyến đò cuối cùng trước khi Bắc Cảnh đóng băng đã cập bến.
Người của Bắc Cảnh Vương phủ đợi đến dài cả cổ, vẫn không thấy bóng dáng vị cô nương nào phù hợp tuổi tác xuất hiện.
Trong vương phủ, lão Bắc Cảnh Vương cầm trong tay một bức thư, sắc mặt đầy nặng nề.
Vương phi bên cạnh lo lắng nói:
“Lẽ ra đã sớm phải phái người đi đón, sao có thể để xảy ra chuyện này chứ?”
Lão Bắc Cảnh Vương thở dài một hơi, không nói lời nào.