NAM HƯƠNG HÀNH

Chương 4



10.

Được Tạ gia hộ tống, chúng ta nhanh chóng đến Thúy Lăng.

Quả nhiên Thúy Lăng đúng như lời Tạ Linh Độ nói, danh bất hư truyền.

Trải qua bao chuyện trên đường đi, ta cũng rút ra được kinh nghiệm: Muốn sống yên ổn, cần phải có một chỗ dựa vững vàng.

Ta thuê lại một cửa tiệm nhỏ, dự định mở một y quán.

Dù dân phong Thúy Lăng cởi mở, song định kiến đối với nữ y vẫn còn sâu sắc.

Ngày đầu mở cửa, trước y quán đã tụ tập một đám đông. Họ đứng xem, tò mò bàn tán, nhưng chẳng một ai bước vào khám bệnh.

Ta quan sát sắc mặt mọi người, thấy rõ sự hiếu kỳ, ngạc nhiên nhưng lại chẳng có khinh miệt hay chế giễu.

Thế thì dễ xử lý rồi.

A Man ủ rũ, khuôn mặt nhỏ nhắn nhăn nhó:
“Tiểu thư, người không sốt ruột chút nào sao?”

Ta chỉ mỉm cười, viết mấy nét đơn giản trên tờ giấy, rồi nói:
“Đừng đứng đấy than vãn nữa, mau đem phương thuốc này đi sắc đi.”

A Man liếc qua đơn thuốc, nghi hoặc hỏi:
“Nguyên liệu là hạnh nhân, bạch thông thảo, trúc diệp, xích tiểu đậu… Tiểu thư, đây là phương thuốc gì vậy?”

Ta nhếch môi cười nhẹ:
“Đoán thử xem?”

 

Ngày thứ hai, trước quán của ta, những chiếc bàn nhỏ đã xếp đầy từng ly trà thơm phức.

A Man đứng trước cửa, giọng lanh lảnh vang khắp phố:
“Trà thanh mát, làm đẹp dưỡng nhan miễn phí đây—!”

Có người tò mò tiến lại gần, ngập ngừng hỏi:
“Cô nương, trà này thật sự có thể dưỡng nhan, giúp đẹp da sao?”

Ta mỉm cười dịu dàng, ánh mắt chắc chắn:
“Đương nhiên rồi.”

Thấy mọi người còn do dự, ta liền tự tay cầm một chén trà, uống cạn trước mặt họ.

“Các vị thân hữu đi ngang qua đây, sao không thử một chén xem sao?”

Một bà lão quan sát kỹ khuôn mặt ta, rồi bất ngờ đẩy người đứng chắn trước bà ra. Bà cất giọng to:
“Nhìn làn da của cô nương này kìa, non mịn như nước vậy, biết đâu thực sự có tác dụng. Ta thử một chén!”

Những người khác thấy vậy cũng lần lượt tiến tới nhận trà.

 

Chẳng mấy chốc, quầy hàng nhỏ trước y quán đã náo nhiệt hẳn lên, tiếng cười nói không dứt.

Vài ngày sau, nhiều người bắt đầu nhận ra cơ thể nhẹ nhàng hơn, làn da cũng sáng sủa, tươi tắn hơn trước.

Tin tức nhanh chóng lan truyền khắp nơi, danh tiếng của y quán ngày một vang xa, người đến xếp hàng dài trước cửa.

A Man vừa soi gương vừa than thở, bĩu môi nói:
“Ta cũng uống không ít trà dưỡng nhan đó, sao chẳng thấy đẹp lên chút nào?”

Ta bật cười, giải thích:
“Ngươi vốn không bị nặng ẩm khí, uống vào sẽ không có tác dụng gì rõ rệt cả.”

A Man nghiêng đầu khó hiểu:
“Ẩm khí là gì cơ?”

Ta chậm rãi nói:
“Khí hậu Thúy Lăng ẩm ướt, cây cỏ xanh tốt quanh năm, lại nằm bên bờ sông lớn, ẩm khí và chướng khí đều rất nặng. Ngươi để ý xem, người dân ở đây phần lớn có thân hình đẫy đà, mặt bóng nhờn phù thũng, đó đều là triệu chứng của ẩm khí xâm nhập vào cơ thể.”

Ta mỉm cười bổ sung:
“Cái gọi là trà dưỡng nhan, chẳng qua là một loại dược trà giúp trừ ẩm khí và thanh nhiệt hạ hỏa mà thôi.”

Bỗng nhiên, một giọng nói vang lên từ phía sau:
“Cô nương quả là thông tuệ, không biết sư thừa từ đâu?”

Người vừa nói là một đạo sĩ râu bạc trắng, trông tiên phong đạo cốt.

Ta khẽ cúi người hành lễ, đáp:
“Tiểu nữ không có sư phụ, chỉ là tự học mà thôi.”

Lão đạo sĩ vuốt vuốt chòm râu, gật đầu hài lòng:
“Ồ, tự học thành tài sao? Bần đạo tên là Trương Trọng Sinh, là một đạo y. Nếu cô nương không chê, có nguyện bái ta làm thầy không?”

Ánh mắt của ông lộ rõ vẻ kỳ vọng.

Ta kinh ngạc ngẩng đầu nhìn ông, tim khẽ rung động.

Người đứng trước mắt ta hóa ra chính là Trương Trọng Sinh, vị đạo y danh chấn thiên hạ, hành tung lại tựa mây khói vô định.

Kiếp trước, Trung Nguyên từng bùng phát đại dịch, nhờ có ông mà dịch bệnh mới phần nào được kiểm soát.

Nhưng cuối cùng, ông lại nhiễm bệnh khi cứu chữa cho người khác mà qua đời.

Vì không có người kế thừa y thuật, khi dịch bệnh bùng phát lần nữa, bao sinh mạng đã chết thảm, không kịp cứu vãn.

Ta nhìn ông với vẻ thành kính, trịnh trọng nói:
“Khúc Giang nguyện bái ngài làm thầy.”

Ông bật cười ha hả, đầy vui mừng:
“Tốt, tốt lắm! Y thuật nhà họ Trương ta cuối cùng cũng có người kế nghiệp rồi.”

 

Nhiều năm sau—

Khi thầy sắp rời cõi trần, ông hỏi ta:
“Khúc Giang, con có biết vì sao ta lại thu nhận con làm đồ đệ không?”

Ta lắc đầu.

Danh tiếng của thầy lẫy lừng khắp thiên hạ, người muốn bái sư học nghệ nhiều không đếm xuể.

Nếu xét về tư chất, ta cũng không phải người xuất sắc nhất.

Thầy mỉm cười, ánh mắt hiền hòa:
“Có nhiều người nói ta tính tình kỳ quái, cả đời học được y thuật cao thâm nhưng lại chẳng chịu truyền thừa cho ai. Thế nhưng, sau nhiều năm hành y, ta đã nhìn thấu lòng người.

Đối với người làm nghề y, bất kể y thuật cao siêu đến đâu, điều quan trọng nhất vẫn là tấm lòng nhân nghĩa.”

Thầy khẽ thở dài:
“Cây hoàng du có công dụng tiêu sưng giảm đau, là vật không thể thiếu trong mỗi nhà. Nhưng chính vì thế, các y thương lại tranh nhau nâng giá.”

“Năm ấy, ta đi ngang qua y quán của con, tất cả mọi nơi đều bán hai lượng, chỉ riêng con chỉ lấy có một văn tiền.”

“Bởi vì, giá trị thực của hoàng du, chỉ đáng một văn mà thôi.”

Nước mắt ta lặng lẽ trào ra, từng giọt rơi xuống không ngừng.

 

11.

Những ngày ở Thúy Lăng trôi qua rất nhanh.

Ban ngày, ta bận rộn khám bệnh tại y quán.

Buổi tối lại cặm cụi nghiên cứu y thư mà Trương tiên sinh để lại.

Ngoài ra, ta và A Man còn "nhặt" được một cô nương.

Tên là Xuân Hoa.

Cái tên thì quê mùa, nhưng người lại thanh tú, dịu dàng.

Chỉ tiếc số phận nàng không tốt, lúc chúng ta gặp nàng, nàng suýt bị tên hôn phu của mình dìm xuống ao.

Ta và A Man chẳng thể nào đứng yên nhìn chuyện ấy xảy ra, liền cứu nàng lên.

Từ đó, bên cạnh chúng ta lại có thêm một “cái đuôi nhỏ.”

Ngày tháng cứ thế lặng lẽ trôi qua, nhẹ nhàng như dòng nước, cũng xem như yên ổn.

Ngoại trừ việc thư từ của một người nào đó cứ tới tấp gửi đến, khiến lòng ta bận tâm không yên.

“Chậc chậc, đây là lá thư thứ mấy trong tháng này rồi?”

A Man nháy mắt với Xuân Hoa, bĩu môi nói:
“Xong rồi, củ cải trắng nhà chúng ta sắp bị lợn ủi mất rồi.”

Xuân Hoa thật thà đáp:
“Nhà chúng ta chỉ có cải trắng thôi, làm gì có cải ngọc, lại càng không nuôi lợn. Nhưng nhắc đến cải trắng, hôm nay ăn thịt lợn hầm cải trắng nhé? Ta có thể ăn liền ba bát cơm!”

“Đồ ngốc, ngươi hết cứu chữa rồi!”

Nhìn hai nàng cãi nhau, ta chỉ biết lắc đầu, rồi cúi xuống mở thư của Tạ Linh Độ.

Hắn vẫn viết dài dòng như mọi khi.

Hắn nói Kim Lăng sắp có tuyết rơi rồi.

Rơi thì rơi thôi.

Thế mà hắn còn phải tỉ mỉ kể rằng tuyết ở Kim Lăng rơi lẫn với mưa, chẳng nắm lại được. Bước lên thì tuyết tan thành nước. Nhìn từ xa thì thấy nhiều, nhưng đến gần lại chẳng còn bao nhiêu.

Hắn lại kể mình nuôi một con mèo nhỏ.

Nuôi thì nuôi thôi.

Thế mà hắn vẫn phải nói kỹ từng chi tiết: đôi mắt nó màu xanh nhạt phủ một tầng vàng, giống hệt viên lưu ly mài dũa. Bộ lông đen vàng có vằn, còn bộ râu thì ba sợi ngắn, hai sợi dài.

Hắn sao có thể nhiều lời đến thế?

Việc người khác nói một câu là xong, hắn cứ phải bẻ nhỏ ra, kể lể thật dài.

Trong lòng ta có chút bực bội, nhưng khóe môi lại bất giác cong lên.

Những năm tháng lặng lẽ không lời và lạnh lẽo trong quá khứ, dường như cũng theo những lời nói vụn vặt ấy mà dần dần tan biến.

Nhưng những ký ức đã chôn sâu kia, lại bất ngờ ập đến, cuồn cuộn trở về sau một tháng.

 

12.

Sáng sớm, A Man vừa đi thu mua dược liệu về đã tức giận đùng đùng.

“Có chuyện gì vậy?”

Nàng ta ném chiếc sọt xuống đất, hậm hực nói:
“Tiểu thư, đúng là kỳ lạ! Các loại dược liệu khác đều có, nhưng duy chỉ có thông cốt thảo là không sao tìm được. Ta đã chạy khắp bốn cái chợ rồi!”

Ta nhíu mày nghi hoặc:
“Thông cốt thảo đâu phải dược liệu quý hiếm gì, Thúy Lăng lại là nơi sản xuất nó, sao có thể không có được?”

Xuân Hoa cũng xen vào:
“Vài hôm trước ta đi cũng không thấy. Nghe nói tất cả đều đã bị thu mua chuyển đến Bắc Cảnh.”

Đã lâu rồi ta mới nghe lại hai chữ “Bắc Cảnh,” trong lòng bỗng dậy lên một chút xao động.

A Man đáp tiếp:
“Đúng vậy! Nghe nói thế tử Bắc Cảnh có một người trong lòng mắc chứng ho mùa đông. Mỗi khi vào đông, thế tử ấy lại không tiếc đường xa vạn dặm mua hết thông cốt thảo của Thúy Lăng cho nàng. Nghe bảo ngựa trạm còn chạy đến kiệt sức chết mấy con.”

Hóa ra ở kiếp này, Kỷ Sơn Đình vẫn si tình với Tống Dao Chước như thế.

Hắn từ trước đến nay vẫn vậy, yêu và hận đều rầm rộ kinh thiên động địa.

Nhưng ta lại nhận ra có gì đó không đúng.

Thông cốt thảo quả thật trị chứng ho, nhưng chỉ cần dùng một lượng nhỏ. Dùng quá nhiều chẳng những không chữa bệnh mà còn có hại.

Hơn nữa, thông cốt thảo lại khó bảo quản, để lâu sẽ bị mục nát.

Tống Dao Chước rốt cuộc cần nhiều thông cốt thảo đến vậy làm gì?

Bất chợt, ta nhớ đến một đoạn ghi chép trong cuốn tạp ký:

“Thông cốt thảo, thân cây chiết lấy nhựa, phơi khô sẽ tạo thành chất keo. Nếu trộn chất này với bột than và hạt diêm tiêu để tinh luyện, uy lực của thuốc nổ sẽ tăng mạnh.”

Nhớ lại những biến động của Hung Nô ở kiếp trước, tim ta bỗng nhói lên lo âu.

Ta vội vàng lấy giấy bút, định viết thư, nhưng đầu bút lại dừng giữa không trung.

Giả thuyết này, ai sẽ tin ta đây?

Ở kiếp này, ta không hề can dự, nghe nói cuối cùng nhà họ Kỷ cũng đã chấp thuận.

Kỷ Sơn Đình được toại nguyện, cưới Tống Dao Chước làm trắc phi.

Lúc ta giật mình bừng tỉnh khỏi dòng suy nghĩ, thì trên trang giấy đã vô thức viết lên cái tên “Tạ Linh Độ.”

Nhớ lại đôi mắt trong trẻo như suối thu ấy, ta không còn do dự nữa.

Trong phủ Bắc Cảnh Vương, sứ giả cúi đầu thấp giọng bẩm báo với bóng người cao lớn trước mặt:

“Bẩm Thế tử, số thông cốt thảo mang về lần này không được nhiều. Khi đến Kim Lăng, đã bị công tử nhà họ Tạ chặn mất một phần.”

Kỷ Sơn Đình hừ lạnh:
“Chẳng phải nghe nói công tử nhà họ Tạ từng mắc bệnh phong khi còn nhỏ ư? Sao giờ cũng mắc chứng ho hay sao?”

Sứ giả không dám đáp lời, chỉ im lặng đứng yên.

Sắc mặt Kỷ Sơn Đình trầm xuống.

Thông cốt thảo vốn chẳng phải thứ quý giá, dù bị họ Tạ lấy đi một ít cũng chẳng tổn thất gì đáng kể.

Nhưng không hiểu vì sao, hễ nghe đến cái tên “Tạ gia công tử,” hắn lại thấy bực bội không yên.

Rõ ràng cả đời chưa từng giao thiệp, vậy mà lại như đang cách một mối thù đoạt thê.

“Có chuyện gì mà cau mày như vậy, Sơn Đình?”

Một giọng nói vang lên, rồi một nữ tử vận y phục đỏ thẫm bước đến.

Vừa thấy nàng, sắc mặt Kỷ Sơn Đình dịu lại.

“Dao Chước, thân thể nàng chưa khỏe, sao còn đi ra đây?”

Tống Dao Chước nở nụ cười tươi tắn:
“Vài ngày nữa là hôn lễ của chúng ta rồi. Trong lòng ta vui mừng khôn xiết, không thể nào ngồi yên được.”

Nghe đến đây, khóe môi Kỷ Sơn Đình cũng thoáng cong lên thành một nụ cười.

Hôm ấy, khi Dao Chước giận dữ bỏ đi, hắn vì đuổi theo nàng mà ngã xuống vách núi.

Khi tỉnh lại, người hầu kể rằng hắn đã gọi tên nàng trong cơn mê man, tiếng gọi thảm thiết khiến ai nấy đều động lòng.

Ngay cả người cha luôn lạnh lùng nghiêm khắc kia cũng cuối cùng đã đồng ý gả nàng cho hắn.

Giấc mộng bao năm cuối cùng cũng thành hiện thực, trong lòng Kỷ Sơn Đình tự nhiên tràn đầy hạnh phúc.

Thế nhưng, đâu đó sâu trong đáy lòng, hắn lại có cảm giác như đã bỏ quên điều gì đó.

Cảm giác ấy không quá mãnh liệt như tuyết lở phủ xuống, khiến người ta tan nát cõi lòng.

Mà chỉ giống như một nhành mai xuân đã qua mùa, không còn cơ hội nở hoa giữa ngày đông lạnh giá.

Một sự tiếc nuối âm thầm, dịu dàng mà không tên.

Kỷ Sơn Đình chìm vào suy tư, nghĩ mãi về cảm giác này, bất giác thất thần hồi lâu.

Chương trước Chương tiếp
Loading...